NHỚ VỀ NHÀ THƠ KHÁNG CHIẾN GIANG NAM ‘*’
Đó là một đêm khá lạnh của năm 1970 tôi
ngồi trước máy chữ trên căn gác ngôi nhà số 42 đường Võ Tánh nay đổi thành Bùi
Thị Xuân, thuộc Phường 2, thành phố Đà Lạt; đang lui cui sắp xếp bài vở chuẩn
bị đánh lên giấy stencil để in ronéo tập tuyển thơ nhiều tác giả kịp phục vụ đại
hội Sinh viên Phật tử Đà Lạt nhiệm kỳ mới. Anh Ngô Thế Lý (lúc này là Chủ tịch
Sinh viên Phật tử) vội vã băng mình giữa tối giới nghiêm căng thẳng, từ giảng
đường chùa Linh Sơn bí mật đem về bản chép tay bài thơ Quê Hương của tác giả Giang
Nam, anh bảo đây là nhà thơ kháng chiến
phải đăng ngay vào tuyển thơ “Việt Nam
dân tộc anh hùng” mình đang xuất bản mới được. Vậy là tôi có dịp tiếp cận
sáng tác của nhà thơ Giang Nam từ đó.
Tâm trạng
tôi lúc ấy vừa thích thú lại vừa hồi hộp. Thích thú là lần đầu được đọc tác
phẩm của nhà thơ đi kháng chiến đã cho tôi những rung động rạo rực mới lạ mà trước giờ chưa gặp, nhưng lòng hồi hộp lo
trong lúc đang đánh máy thơ Giang Nam
lên giấy in bất ngờ bị cớm chìm(mật vụ) đánh hơi phát hiện ập vào coi như nguy
to, vì chung quanh khu vực tôi lúc ấy đa số là nhà trọ nhiều giới chức của
chính quyền Sài Gòn nơi thành phố cao nguyên này. Nhằm đề phòng bất trắc, chúng
tôi phải hãm thanh tối đa tiếng máy đánh chữ vọng ra, ngăn ánh điện làm việc
không cho chiếu hắt qua cửa gương xuống phố đêm, bằng cách lấy chăn mền che kín
bên trong tất cả các cửa và những ngóc ngách khả nghi rò rỉ ánh sáng và âm
thanh của gác trọ trước khi làm việc. “Văn kỳ thanh bất kiến kỳ hình”, sự quyến
rũ thơ kháng chiến Giang Nam như có ái lực thôi thúc anh em chúng tôi kỳ công
chép bài Nghe em vào đại học từ
chương trình thơ trên làn sóng Đài Tiếng Nói Việt Nam để đăng vào tập san Tin Tưởng của sinh viên Phật tử Đà Lạt
số chủ đề “Đồng bào ta một lòng đuổi Mỹ”
sau đó. Những sáng tác của Giang Nam cùng nhiều thơ nhạc các văn nghệ sĩ cách
mạng hồi ấy lén nghe trong vùng địch tôi có cảm giác rất linh hiển; thậm chí
trong trí tưởng tượng có phần ngô nghê đáng yêu rằng, nghệ sĩ cách mạng như
những hiệp sĩ thời xưa thoắt ẩn thoắt hiện, nay đây mai đó, diệt gian trừ bạo,
cứu nhân độ thế… Từ đó mỗi khi phát hiện thơ Giang Nam ở đâu tôi bằng mọi cách
vồ đọc thưởng thức cho kỳ được, nhất là lén nghe các chương trình tiếng thơ
trên Đài Tiếng nói Việt Nam và Đài Phát thanh Giải phóng. Do vậy những sáng tác
của tôi thời kỳ này sớm bước sang lối rẽ dấn thân đối với cuộc chiến và bày tỏ
thái độ trước thực trạng đất nước mà các báo chí đối lập chế độ cũ trước đây như:
Đối Diện, Tin Sáng, Tin Tưởng, Tự Quyết, Trình Bày… thường đăng tải.
Sau ngày
đất nước thống nhất tôi mới gặp tác giả Giang Nam tại Nha Trang. Trước mắt tôi
nhà thơ có vóc người tầm thước trung bình nhưng ẩn chứa nét phong trần với
gương mặt sáng, dễ thân thiện, dễ xúc cảm. Hôm ông nói chuyện với các giới công
chúng tỉnh Phú Khánh sau chuyến đi thực tế mà Khmer Đỏ vừa tràn qua gây tội ác
cho đồng bào ta dọc theo nhiều tỉnh biên giới Tây Nam. Trong khi nhà thơ kể lại
những điều mắt thấy tai nghe về những bạo tàn, thương đau, tang tóc dân mình
phải gánh chịu, thi thoảng giọng nói ông chùng xuống nghèn nghẹn, chập chập ông
lại gỡ kính mắt ra lau vì nhòe lệ.
Sau này nhà
thơ Giang Nam về làm Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Phú Khánh(gồm Phú Yên
và Khánh Hòa) tôi thường có dịp tiếp xúc nhiều hơn với ông. Khi thì được nghe
nhà thơ kể về đời sống gian lao, khó khăn, nguy hiểm của văn nghệ sĩ nơi chiến
trường, lúc thì nói đến cách chọn đề tài để viết. Ông cho biết đôi khi mạch sáng
tác bị nghẽn, nhà thơ tạm dừng bút quay sang làm việc khác cho đầu óc thư giãn,
như sửa san cây cảnh, làm chuồng chăm sóc vật nuôi… Hầu hết sáng tác của ông đều
bắt nguồn từ hiện thực; có lúc như tự truyện(bài Quê Hương), có lúc như khát vọng(bài Nghe em vào đại học), nhiều khi thơ ông trở thành bản cáo trạng
đanh thép đối với kẻ thù.
Hòa bình lập lại mạch thơ Giang Nam thêm phần
cảm thông, chia xẻ với bao hoàn cảnh thiệt thòi; thậm chí khoan dung với kẻ lạc
đường, độ lượng với số phận những phụ nữ lỡ lầm như trong bài lục bát khi ông
đến thăm Trại phục hồi nhân phẩm Đồng Găng. Rồi ông chia xẻ với chúng tôi việc
giao lưu chuyển gửi tác phẩm đến tòa soạn, đến nhà xuất bản; cách giữ gìn bảo
quản cẩn thận bản thảo trong mọi tình huống. Vậy mà có lần thời bao cấp cuối
những năm 70 đầu những năm 80 thế kỷ trước, phương tiện đi lại còn khó khăn,
cảnh tàu xe căng thẳng nhốn nháo. Nhà thơ Giang Nam đem tập bản thảo vào cho
nhà in thành phố Hồ Chí Minh đựng trong cặp táp dày cộp. Kẻ cắp trên tàu hỏa tưởng
ông cán bộ này mang nhiều tiền, nhân cơ hội xô đẩy chen lấn đã rạch xách nhà
thơ lấy trộm. Khi xuống tàu mới biết cặp xách bị rạch và cuốn bản thảo bị mất,
ông bần thần tiếc nuối tập bản thảo vô chừng!
Cả đời
làm cách mạng, Giang Nam lúc nào cũng nghĩ đến chữ tâm, chữ đức. Ông chia xẻ:
“Thi ca cũng cần phải có đạo đức, ngày xưa chúng tôi làm thơ cũng chỉ để phục
vụ cho cái chân-thiện-mỹ, ngày nay cũng thế… Làm văn nghệ, lãnh đạo văn nghệ là
phải phát hiện ra cái mới, phải đi tìm, nuôi dưỡng và bảo vệ những người sáng
tạo đích thực, chứ không phải đến ngồi tán gẫu cho sung sướng rồi hưởng lương,
rồi đấu đá, thế thì buồn lắm…”.
Hồi ấy hội
viên Hội văn học nghệ thuật tỉnh Phú Khánh chưa nhiều; hội viên phía bắc Phú Khánh(Phú
Yên) lại càng quá ít. Nên khi tôi lập gia đình, Chủ tịch hội Giang Nam cùng các
văn nghệ sĩ nhiệt tình đánh xe ra Tuy Hòa dự cưới. Hôm ấy nhằm ngày Tết dương
lịch năm 1984 tổ chức tại nhà 69 đường Nguyễn Huệ. Các khách đến dự ngồi vào số
bàn băng học sinh được mượn từ một trường tiểu học gần đó đem về, dùng tiệc trà,
chúc mừng, rồi hát ca, đọc thơ, kể chuyện vui… Nhà thơ Giang Nam xung phong lên
trước đọc liền 3 bài thơ tặng tiệc cưới, xong quay sang bắt tay chúc mừng cô
dâu chú rể. Lần lượt nhà thơ Đào Xuân Quý, nhà văn Nguyễn Gia Nùng, nhà thơ
Triệu Phong cũng vậy. Riêng họa sĩ Thanh Hồ vẽ sẵn chân dung phác họa tôi tặng
trong dịp này. Rất vui!
Những văn
nghệ sĩ ngày ấy bao năm qua đã lần lượt lãng du vào cõi vĩnh hằng. Nay nhà thơ
Giang Nam là người cuối cùng ra đi trong số văn nhân thi sĩ ở Nha Trang đến Phú
Yên dự ngày vui của tôi cách nay gần 40 năm. Tôi xin mạn phép thay đôi chỗ
trong câu thơ ở cuối bài Quê Hương để
tiễn ông, mong hương linh người tha thứ. “Nay
tôi yêu quê hương vì trong nắm đất/ Có một phần xương thịt của Giang Nam”.
Nguyễn Tường Văn
‘*’ Nhà thơ
Giang Nam mất ngày 23-01-2023 tại Nha Trang, thọ 95 tuổi.
Đ/c: thôn Đông Phước, xã Hòa An, huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên. Dđ: 098475
.jpg)



