Thứ Ba, 25 tháng 4, 2023

NHỚ VỀ NHÀ THƠ KHÁNG CHIẾN GIANG NAM - NGUYỄN TƯỜNG VĂN

 NHỚ VỀ NHÀ THƠ KHÁNG CHIẾN GIANG NAM  ‘*’

 

 


            Đó là một đêm khá lạnh của năm 1970 tôi ngồi trước máy chữ trên căn gác ngôi nhà số 42 đường Võ Tánh nay đổi thành Bùi Thị Xuân, thuộc Phường 2, thành phố Đà Lạt; đang lui cui sắp xếp bài vở chuẩn bị đánh lên giấy stencil để in ronéo tập tuyển thơ nhiều tác giả kịp phục vụ đại hội Sinh viên Phật tử Đà Lạt nhiệm kỳ mới. Anh Ngô Thế Lý (lúc này là Chủ tịch Sinh viên Phật tử) vội vã băng mình giữa tối giới nghiêm căng thẳng, từ giảng đường chùa Linh Sơn bí mật đem về bản chép tay bài thơ Quê Hương của tác giả Giang Nam, anh bảo đây là nhà thơ kháng chiến phải đăng ngay vào tuyển thơ “Việt Nam dân tộc anh hùng” mình đang xuất bản mới được. Vậy là tôi có dịp tiếp cận sáng tác của nhà thơ Giang Nam từ đó.

     Tâm trạng tôi lúc ấy vừa thích thú lại vừa hồi hộp. Thích thú là lần đầu được đọc tác phẩm của nhà thơ đi kháng chiến đã cho tôi những rung động rạo rực mới lạ  mà trước giờ chưa gặp, nhưng lòng hồi hộp lo trong lúc đang đánh máy thơ Giang Nam lên giấy in bất ngờ bị cớm chìm(mật vụ) đánh hơi phát hiện ập vào coi như nguy to, vì chung quanh khu vực tôi lúc ấy đa số là nhà trọ nhiều giới chức của chính quyền Sài Gòn nơi thành phố cao nguyên này. Nhằm đề phòng bất trắc, chúng tôi phải hãm thanh tối đa tiếng máy đánh chữ vọng ra, ngăn ánh điện làm việc không cho chiếu hắt qua cửa gương xuống phố đêm, bằng cách lấy chăn mền che kín bên trong tất cả các cửa và những ngóc ngách khả nghi rò rỉ ánh sáng và âm thanh của gác trọ trước khi làm việc. “Văn kỳ thanh bất kiến kỳ hình”, sự quyến rũ thơ kháng chiến Giang Nam như có ái lực thôi thúc anh em chúng tôi kỳ công chép bài Nghe em vào đại học từ chương trình thơ trên làn sóng Đài Tiếng Nói Việt Nam để đăng vào tập san Tin Tưởng của sinh viên Phật tử Đà Lạt số chủ đề “Đồng bào ta một lòng đuổi Mỹ” sau đó. Những sáng tác của Giang Nam cùng nhiều thơ nhạc các văn nghệ sĩ cách mạng hồi ấy lén nghe trong vùng địch tôi có cảm giác rất linh hiển; thậm chí trong trí tưởng tượng có phần ngô nghê đáng yêu rằng, nghệ sĩ cách mạng như những hiệp sĩ thời xưa thoắt ẩn thoắt hiện, nay đây mai đó, diệt gian trừ bạo, cứu nhân độ thế… Từ đó mỗi khi phát hiện thơ Giang Nam ở đâu tôi bằng mọi cách vồ đọc thưởng thức cho kỳ được, nhất là lén nghe các chương trình tiếng thơ trên Đài Tiếng nói Việt Nam và Đài Phát thanh Giải phóng. Do vậy những sáng tác của tôi thời kỳ này sớm bước sang lối rẽ dấn thân đối với cuộc chiến và bày tỏ thái độ trước thực trạng đất nước mà các báo chí đối lập chế độ cũ trước đây như: Đối Diện, Tin Sáng, Tin Tưởng, Tự Quyết, Trình Bày… thường đăng tải.

     Sau ngày đất nước thống nhất tôi mới gặp tác giả Giang Nam tại Nha Trang. Trước mắt tôi nhà thơ có vóc người tầm thước trung bình nhưng ẩn chứa nét phong trần với gương mặt sáng, dễ thân thiện, dễ xúc cảm. Hôm ông nói chuyện với các giới công chúng tỉnh Phú Khánh sau chuyến đi thực tế mà Khmer Đỏ vừa tràn qua gây tội ác cho đồng bào ta dọc theo nhiều tỉnh biên giới Tây Nam. Trong khi nhà thơ kể lại những điều mắt thấy tai nghe về những bạo tàn, thương đau, tang tóc dân mình phải gánh chịu, thi thoảng giọng nói ông chùng xuống nghèn nghẹn, chập chập ông lại gỡ kính mắt ra lau vì nhòe lệ.

    Sau này nhà thơ Giang Nam về làm Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Phú Khánh(gồm Phú Yên và Khánh Hòa) tôi thường có dịp tiếp xúc nhiều hơn với ông. Khi thì được nghe nhà thơ kể về đời sống gian lao, khó khăn, nguy hiểm của văn nghệ sĩ nơi chiến trường, lúc thì nói đến cách chọn đề tài để viết. Ông cho biết đôi khi mạch sáng tác bị nghẽn, nhà thơ tạm dừng bút quay sang làm việc khác cho đầu óc thư giãn, như sửa san cây cảnh, làm chuồng chăm sóc vật nuôi… Hầu hết sáng tác của ông đều bắt nguồn từ hiện thực; có lúc như tự truyện(bài Quê Hương), có lúc như khát vọng(bài Nghe em vào đại học), nhiều khi thơ ông trở thành bản cáo trạng đanh thép đối với kẻ thù.

          Hòa bình lập lại mạch thơ Giang Nam thêm phần cảm thông, chia xẻ với bao hoàn cảnh thiệt thòi; thậm chí khoan dung với kẻ lạc đường, độ lượng với số phận những phụ nữ lỡ lầm như trong bài lục bát khi ông đến thăm Trại phục hồi nhân phẩm Đồng Găng. Rồi ông chia xẻ với chúng tôi việc giao lưu chuyển gửi tác phẩm đến tòa soạn, đến nhà xuất bản; cách giữ gìn bảo quản cẩn thận bản thảo trong mọi tình huống. Vậy mà có lần thời bao cấp cuối những năm 70 đầu những năm 80 thế kỷ trước, phương tiện đi lại còn khó khăn, cảnh tàu xe căng thẳng nhốn nháo. Nhà thơ Giang Nam đem tập bản thảo vào cho nhà in thành phố Hồ Chí Minh đựng trong cặp táp dày cộp. Kẻ cắp trên tàu hỏa tưởng ông cán bộ này mang nhiều tiền, nhân cơ hội xô đẩy chen lấn đã rạch xách nhà thơ lấy trộm. Khi xuống tàu mới biết cặp xách bị rạch và cuốn bản thảo bị mất, ông bần thần tiếc nuối tập bản thảo vô chừng!

       Cả đời làm cách mạng, Giang Nam lúc nào cũng nghĩ đến chữ tâm, chữ đức. Ông chia xẻ: “Thi ca cũng cần phải có đạo đức, ngày xưa chúng tôi làm thơ cũng chỉ để phục vụ cho cái chân-thiện-mỹ, ngày nay cũng thế… Làm văn nghệ, lãnh đạo văn nghệ là phải phát hiện ra cái mới, phải đi tìm, nuôi dưỡng và bảo vệ những người sáng tạo đích thực, chứ không phải đến ngồi tán gẫu cho sung sướng rồi hưởng lương, rồi đấu đá, thế thì buồn lắm…”.

     Hồi ấy hội viên Hội văn học nghệ thuật tỉnh Phú Khánh chưa nhiều; hội viên phía bắc Phú Khánh(Phú Yên) lại càng quá ít. Nên khi tôi lập gia đình, Chủ tịch hội Giang Nam cùng các văn nghệ sĩ nhiệt tình đánh xe ra Tuy Hòa dự cưới. Hôm ấy nhằm ngày Tết dương lịch năm 1984 tổ chức tại nhà 69 đường Nguyễn Huệ. Các khách đến dự ngồi vào số bàn băng học sinh được mượn từ một trường tiểu học gần đó đem về, dùng tiệc trà, chúc mừng, rồi hát ca, đọc thơ, kể chuyện vui… Nhà thơ Giang Nam xung phong lên trước đọc liền 3 bài thơ tặng tiệc cưới, xong quay sang bắt tay chúc mừng cô dâu chú rể. Lần lượt nhà thơ Đào Xuân Quý, nhà văn Nguyễn Gia Nùng, nhà thơ Triệu Phong cũng vậy. Riêng họa sĩ Thanh Hồ vẽ sẵn chân dung phác họa tôi tặng trong dịp này. Rất vui!

     Những văn nghệ sĩ ngày ấy bao năm qua đã lần lượt lãng du vào cõi vĩnh hằng. Nay nhà thơ Giang Nam là người cuối cùng ra đi trong số văn nhân thi sĩ ở Nha Trang đến Phú Yên dự ngày vui của tôi cách nay gần 40 năm. Tôi xin mạn phép thay đôi chỗ trong câu thơ ở cuối bài Quê Hương để tiễn ông, mong hương linh người tha thứ. “Nay tôi yêu quê hương vì trong nắm đất/ Có một phần xương thịt của Giang Nam”.

 

                                                                                             Nguyễn Tường Văn

 

 

         ‘*’ Nhà thơ Giang Nam mất ngày 23-01-2023 tại Nha Trang, thọ 95 tuổi.

 

Đ/c: thôn Đông Phước, xã Hòa An, huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên. Dđ: 098475

Chủ Nhật, 23 tháng 4, 2023

HỒ THANH NGÂN - VỆT MỰC ƯU TƯ LẶNG LẼ! - KHANG QUỐC NGỌC

 HỒ THANH NGÂN – VỆT MỰC ƯU TƯ LẶNG LẼ!


Khang Quốc Ngọc


Hồ Thanh Ngân xuất hiện cũng đã khá lâu trên thi đàn, kể từ khi còn là một

cậu bé học sinh lớp 8 anh đã có thơ đăng trên tờ thiếu niên tiền phong. Hồi ấy,

nghe một số anh em văn nghệ sỹ kể lại thì Hồ Thanh Ngân là một cây bút được

bạn bè văn nghệ trẻ Phú Yên nể trọng vì sớm có những câu thơ hay. Song dạo

gần đây, anh lại ít xuất hiện trên các báo và tạp chí. Điều gì đã làm cho cây bút

Hồ Thanh Ngân chựng lại? Khi gặp anh mới biết thơ anh dần rút sâu vào sự ưu

tư cuộc đời nên anh viết có vẻ rất chậm. Âu cũng là một điều dễ hiểu khi con

người càng lớn tuổi thì càng lặng lẽ hơn.

Thơ Hồ Thanh Ngân – Thạch Đà thường trầm, giàu triết lí nhân sinh và

chiêm nghiệm cuộc đời. Điều này vừa là thế mạnh nhưng lại cũng vừa là điểm

yếu trong thơ anh. Điểm mạnh thể hiện rất rõ ở tứ thơ, có bài vì quá chú trọng

đến lập tứ mà anh lại vụng về ở khía cạnh diễn ngôn. Bởi thế cho nên, có khi

đọc thơ anh ta đang thú vị thả hồn theo những chiêm nghiệm nhưng rồi phải

đột ngột dừng lại vì điệu mơ màng kia chưa được anh chú trọng chọn cho đôi

cánh lấp lánh mĩ miều của ngôn ngữ. Cho nên đọc thơ Hồ Thanh Ngân mà đi

tìm cái ngân nga của câu chữ thì e người đọc khó có thể chạy cho hết con

đường thơ mà Hồ Thanh Ngân đã từng ươm rải trên xa lộ hành trình chữ nghĩa

kia được.

Cái chất triết lí cuộc đời nó thấm quá sâu vào ngôn ngữ nghệ thuật Hồ

Thanh Ngân. Anh đắm đuối với thi ca theo kiểu riêng của mình. Có đôi lúc, chỉ

cần vài hình ảnh, chiều đáp của cánh hoa rơi, đắng cay dịu ngọt nảy mầm… là

tác giả đã có thể gợi ra bao nhiêu những mơ hồ chênh chao của kiếp người

qua những “câu thơ hát lên màu số phận”: “Khi mỗi câu thơ còn hát lên màu số

phận/ Thì anh còn nhớ đến tay người/ Chiều ở đây bàng bạc cánh hoa rơi/ Có

những tháng năm tưởng vào quên lãng/ Có những đắng cay cho ngọt dịu nảy

mầm/ Chiều mơ hồ chiều vỡ trong anh” (Độc thoại chiều)

Tôi vẫn hình dung Hồ Thanh Ngân thường lầm lụi đi về trên con đường có

cây cầu gỗ bắc qua mặt ao để đến nơi dạy học. Cái ao ấy vốn trước đây là mặt

ruộng, dân họ đào bới mãi mà thành ra ao. Hình ảnh ấy gợi ra một điều rằng,

hình như Hồ Thanh Ngân lúc nào cũng đang như rất vội, nên cái đơn độc nó

ngún vào thơ anh, thành thử thơ anh thường kiệm lời và ngắn dòng ít chữ

chăng?

Hồ Thanh Ngân lắng nghe tiếng chim bằng sự quan sát và thẩm thấu của

tâm hồn nên mới có cách tả thiên nhiên là lạ, anh cho âm thanh có hình có

khối: “Tu hú kêu trong vườn/ Âm thanh đọng trên lá” (Tiếng chim mùa hạ). Và

đó phải chăng cũng chính là một sự hoán đổi cảm giác độc đáo để giãi bày sự

lắng nghe thiên nhiên đang rung lên trong tâm tưởng nhà thơ? Nên có lẽ thiết

nghĩ rằng phía sau mới có một chuỗi những hình ảnh tươi mới của sự hồi sinh

liền kề:“Tiếng chim nghe thảng thốt/ Như chính trái tim mình/ Âm thanh như lửa


cháy/ Cho mùa hạ hồi sinh” (Tiếng chim mùa hạ). Và rồi liền ngay sau đó là

một sự thốt nhiên đẹp đến mê mị do sự hòa trộn cảm thức lay gọi từ phía thẳm

sâu mơ hồ:“Câu thơ ngỡ ngủ quên/ Bị tiếng chim đánh thức”. Tả cảnh mà đích

thị là tả lòng, tả cái xôn xao bừng dậy của tâm hồn nhà thơ tưởng như đã ngủ

quên nguội lạnh bao ngày. Cái nhìn trong trẻo và cảm thức bừng ngộ đan cài

cực kì độc đáo của Hồ Thanh Ngân lại một lần nữa được anh sử dụng đắc địa

trong bài thơ này.

Bởi vậy, thơ Hồ Thanh Ngân thường dựa vô cái cô đơn mà có được

những bài thơ hay đến nao lòng:


Trước nhà tôi sông Bầu Dài

sau lưng là núi  Chóp Chài chắn ngang

những chiều câu cá lang thang

tôi câu dính cả mây vàng đáy sông

(Lang thang chiều)


Tôi cứ đọc đi đọc lại, rồi đọc lại tới lui nhiều lần bài thơ này mà vẫn cứ

muốn đọc mãi. Quả là một bài thơ có sự ám ảnh kì lạ! Một bài thơ tứ tuyệt lục

bát không thể nào hay hơn được nữa. Hai câu thơ đầu miêu tả phong cảnh

như chuẩn bị phông nền sẵn cho hai câu còn lại. “Trước nhà” và “sau lưng” là

muốn đề cập đến không gian dài và rộng như kiểu người ta dọn đường trước

vậy. Đến ý thơ ở câu thứ ba “những chiều câu cá lang thang” là muốn cho cái

không gian dài và rộng kia rộng thêm ra nữa, mênh mang hơn nữa. Nhưng đó

vẫn chỉ là không gian bề rộng, phải đến đến câu cuối “tôi câu dính cả mây vàng

đáy sông” thì cái không gian như được kéo bung ra vô tận ở tất cả các chiều

kích của nó: dài, rộng, cao đến độ vô cùng… để cuối cùng là thấy cho bằng

được tấm lòng rộng rinh vô bờ bến của thi nhân khi bày tỏ tình yêu của mình

với quê nhà. Bài thơ là tiếng nói tình yêu quê hương tha thiết đẫm chất lãng

mạn. Cho nên, có thể nói bài thơ “Lang thang chiều” lấy câu cá để làm điểm

nhấn bộc lộ tình yêu, sự gắn bó hết mình với quê hương xứ sở chăng? Đi câu

mà “dính mây vàng đáy sông” thì đích thị là kiểu nói của tao nhân mặc khách

để tỏ tấm lòng mình chứ không còn ở cái tầng lửng lơ vui thú của kẻ đi câu cá

bình thường!

Tôi đồ rằng, Hồ Thanh Ngân thường lang thang một mình khi quá nhớ về

trời Yên đất Phú nên mới có được những câu thơ nặng tình quê đến vậy! Âu

đó cũng là cái tình của những người con xa xứ lang bạt kỳ hồ mà tâm tưởng

luôn đau đáu hướng về quê nhà! Điều này phải chăng đã làm nên một Hồ

Thanh Ngân như là một vệt mực ưu tư lặng lẽ vừa như ấp ủ vừa như muốn

giãi bày!

Sài Gòn những ngày đầu xuân 2021

Thứ Bảy, 22 tháng 4, 2023

NHỚ PHÚ YÊN - THẠCH ĐÀ (HỒ THANH NGÂN )- 2012 BẢN THẢO ĐẦU TIÊN


 NHỚ PHÚ YÊN 

(TRƯỜNG CA)

 HỒ THANH NGÂN


1 .LỊCH SỬ
Bốn trăm năm gió vẫn thổi qua ghềnh qua bãi
Qua Hoa Anh Phù Nam Chiêm Thành Đại Việt
Nhát kiếm của người xưa chém vào mây trắng
Giọng nói của người xưa đục đá khắc ghi
Có bút tích vua Lê còn mãi trong lòng người
có khai quốc công thần Lương Văn Chánh
còn sống mãi trong tên đất tên làng
có Lê Thành Phương cần vương chống giặc
người anh hùng tuẫn tiết vẫn hiên ngang
có Trần Suyền thành danh trên con đường khoa cử
hạt gạo Tuy hòa cứu khu năm khi đói
đập Đồng Cam nước lai láng tràn đầy
chống pháp kiên cường mảnh đất miền Trung
đây Vũng Rô điểm tập kết đường Hồ Chí Minh trên biển
đây Tuy An thảm sát Ngân Sơn kinh hoàng
đây đường Năm đánh tan quân giặc rút chạy
đây quốc lộ 25 khiến kẻ địch kinh hoàng
đây Đồng Xuân chi bộ đảng đầu tiên
đây đường sắt nối Cù Mông đèo Cả
quê hương có vịnh Xuân Đài soi bóng dừa xanh
có ghành Đá Dĩa nên thơ đẹp trữ tình
có Ô Loan cảnh đẹp như tranh vẽ
sò huyết đâu ngon bằng quê ta
bãi Môn tự tình đón mặt trời lên
Vũng Rô như người đẹp đang nằm ngủ
gành Đỏ đường đi thơm nước mắm lối về
đàn đáTuy An ngân vang giai điệu
bánh tráng Hòa Đa đông bình ai cũng nhớ
Long Thủy đồi Thơm bè bạn ghé thăm
bò một nắng Sơn Hòa dừng xe ghé lại
cá ngừ đại dương đi khắp bốn phương trời
hò bá trạo đêm trăng vang bến bãi
điệu bài chòi thao thức làng quê
Chóp Chài cô đơn Đá Bia cô đơn
Nhạn tháp cô đơn sông Ba cô đơn
Củng sơn thở dài Đà Nông thở chậm
sông Ba cởi lòng mùa nước khô
một bình nguyên giữa hai đường Nam Bắc
đèo Cả phía nam Cù Mông phía bắc
Phú Yên ơi vùng trũng giữa hai đèo!!!
2. CON NGƯỜI
Gió Tuy Hòa đi vào thơ ca
Gió Tuy Hòa sống trong lòng mọi người
Gió làm nên gương mặt một vùng đất
Gió làm nên một giọng điệu thi ca
Người Tuy Hòa cởi mở lắm bạn ơi
Dù chân chất quê mùa như bạn thấy
“đa tình con mắt Phú Yên” Tản Đà từng nói vậy
Đến một lần để hiểu và yêu người dân quê tôi
Có gió đấy gió sẽ làm chứng
Gió Tuy Hòa làm nên thương hiệu người tuy hòa
Người Tuy Hòa phát âm a thành e
Phát âm ôi thành âm âu
Dẫu giọng nói làm ta mắc cười
Nhưng tình người nhớ mãi không thôi…
Những Lương Tấn Thịnh Lê Trung Kiên Trần Quốc Tuấn đã làm nên lịch sử
Những con người Hòa Thịnh vực dậy ngọn lửa đấu tranh
Hòa Hiệp kiên trung Hòa Đồng anh hùng
Tuy Hòa nơi chở che nhà cách mạng Nguyễn Hữu Thọ
Nhớ Nguyễn Mỹ “cuộc chia ly màu đỏ”
Nhớ Nhật Lai “quê lụa Hà Tây”
Nhớ Võ Hồng bên dòng Ngân Sơn xao xuyến
Đi đâu vẫn nhớ về xứ nẫu
Nhớ giọng nẫu nhớ con người nẫu
Nẫu đi rồi nẫu sẽ dìa
Sống hết mình như gió
Sống thật thà như đất
Sống nồng nàn như nắng
Sống không hình thức màu mè như con người mình vốn vậy
Người Phú Yên là như vậy đấy
Người Phú Yên là thế bạn ơi
Khi tôi xa Tuy Hòa
Tôi vẫn nhớ mình là dân nẫu
Để không bị lạc điệu
Tôi học tiếng nói của bạn bè
Nhưng trong thâm sâu tôi vẫn nhớ gió
Nhưng trong thâm sâu tôi vẫn gốc Tuy Hòa
Tôi cô đơn mặc định như Chóp Chài Đá Bia
Tôi nồng nàn như gió Tuy Hòa và hết lòng như nắng miền Trung
Tôi cách ly với phiền toái như Cù Mông và đèo Cả ngăn trở Phú Yên
3. TUỔI THƠ
Tôi sinh ra từ khúc ruột miền Trung
Nam Trung Bộ là quê hương tôi đó
Tuy Hòa nơi tuổi thơ tôi lê la góc phố
Mòn vẹt bao vệ đường trò chơi trẻ con
Nơi vỉa hè trốn cha ngồi đọc sách
Những con đường rong ruổi bạn bè vui
Tôi học trường Phường Tư trường Nguyễn Huệ
Đã đi qua bao năm tháng học trò
Có những đùa vui có lần tinh ngịch
Ký ức hằn những đòn roi
Có những thầy cô qua năm tháng học trò
Để lại trong lòng bao điều đẹp đẽ
Bạn bè ơi ngày xưa ta nhớ
Gọi thầm tên khi đứng giữa trường
Lâu lắm rồi ta không về trường cũ
Kỷ niệm không ngủ yên
Ai có một lần ngang qua trường cũ
Nhắc lại dùm ta có một thi sỹ rất khờ
Tuổi thơ ta in hằn trong những vết chân trâu
Ta chơi trốn tìm trong đó
Tiếng dế mùa hè tiếng cu gù mùa thu
Lay động những câu thơ thức dậy
Bao trò vui bạn ơi có nhớ
Cánh đồng làng xác tín tuổi thơ
Tuổi thơ tôi thấm đẫm với thi ca
Nuôi mơ ước thành thi nhân thi sỹ
Tôi đã đốt ngọn lửa rơm nuôi câu thơ bé nhỏ
Đến bây giờ chẳng hối tiếc đâu!
Thời gian dù trôi qua mau
Từ tiếng khóc đầu tiên đến nụ cười sau cùng vẫn dành cho thơ
Tuổi thơ tôi lận đận với thi ca
Tôi vấp ngã và tôi đứng dây
Đam mê ngựa không cương không ai cản
Tôi bốc đồng ứ hự với thi ca
Thơ làm tôi đau thơ giúp tôi cười
Cha mẹ tôi không thành đạt với đời
Cha mẹ tôi không học hành nhiều chữ
Cha tôi kéo tôi trở về mặt đất
Mẹ tôi dạy tôi tự an ủi lỗi lầm
Tôi biết yêu đời thường , biết yêu văn Nam Cao ,biết chấp nhận khắc nghiệt cuộc sống từ tuổi thơ khốn khó
4. THI CA
Không ở đâu nhiều thơ như ở đây
Bè bạn gặp nhau nói một câu lục bát
Tháp nhạn nhờ thơ bay lên cao
Người nhờ tháp giữ cân bằng mặt đất
Người người làm thơ
Nhà nhà làm thơ
Ra ngõ gặp ngay những người cầm bút
Đêm về ảo mộng thi sỹ thi nhân
Đất khốn khó nuôi khát vọng giàu và yên
Nhưng rất giàu về tinh thần
Vì nhiều người yêu thơ và làm thơ
Tỉnh lẻ Miền Trung được như thế là quý lắm rồi
Thơ Phú Yên sánh vai cùng Huế , Hà Nội, Nam Định, thành phố Hồ Chí Minh
Người cầm bút quê tôi như thế rất đáng mừng
ở Phú Yên có đêm thơ nguyên tiêu
rằm tháng giêng trở thành điểm hẹn du khách
bao bè bạn bốn phương về đây tụ hội
mấy mươi năm bề dày tổ chức
trở thành đặc sản tinh thần người Phú Yên
nơi khởi nguồn của ngày thơ Việt Nam
người cầm bút quê tôi rất đáng yêu
nồng nàn con chữ như gió N am Cồ thổi
không ồn ào khoe khoang tuổi tên
lặng lẽ viết âm thầm như tỉnh lẽ
chỉ gió biết thổi rỗng đi những hư danh
chỉ gió biết ai là người vững chải
họ cầm bút như ngọn gió quê tôi
trải hết lòng mình lên trang giấy
những ồn ào như những phù hoa
gió sẽ thổi bằng bước chân không nghĩ
điều quan trọng là viết thật lòng mình
tiếng vỗ tay tầm thường rồi sẽ quên mất
lịch sử dân tộc là lịch sử Nam tiến
lịch sử văn học là lịch sử Nam tiến
sau Quy Nhơn với Bàn Thành Tứ Hữu
ngày hôm nay là sứ mệnh Tuy Hòa
tôi vẫn tin điều đó đấy bạn ơi
bao người viết sẽ làm nên kỳ tích
viết đơn độc như sông Ba bạn đấy
sống lẻ loi như Tháp Nhạn Chóp Chài
không thể lẫn vào bao vùng quê khác
5 THÁP NHẠN
Tháp Nhạn những con chim nhạn bay đi không trở lại
Bỏ lại bóng dáng thành huyền thoại
Đây tháp của người Chăm làm nơi cúng tế
Đây phế tích lịch sử ngàn năm
Lin ga chọc thẳng trời xanh
Ap sa ra vũ nữ nỗi buồn quá vãng
Tôi nghe tinh hoa của dân tộc quá vãng
Chảy ròng ròng trong từng viên gạch đỏ
Một đất nước lụi tàn trong quá khứ
Để lại ký ức dân tộc chống chọi với thời gian
Nơi đây từng thể hiện đấu trí giữa Chiêm Thành và Đại Việt
Vết tích còn đây không thể phai mờ
Tháp Nhạn đứng trong trăng
Tháp Nhạn đứng trong thơ
Nơi hội tụ của hai dòng sông
Nơi hướng tầm nhìn ra biển lớn
Nơi bao người chồn chân lên đỉnh tháp
Nơi tiếng thơ véo von lên tận trời xanh
Nơi người nông dân buông cày cầm bút
Em học sinh trình diễn cảm xúc mình trước đám đông
Nơi cụ già lấy lại sinh lực thời trai trẻ
Nơi người cầm bút yêu quý con chữ của mình
Nơi trang trọng nơi tâm linh
Bao tục tằn trong người vứt bỏ
Chỉ khi ấy bạn hòa nhập vào trời đất
Chỉ khi ấy bạn hòa nhập vào vũ trụ
Trở về đi về nguyên bản chính mình
Trở về đi thành một vũ trụ nhỏ
Bao lo lắng đời thường ta vứt bỏ
Ta làm mới ta , ta trở lại từ đầu
Tiếng khóc đầu tiên bên bầu sữa mẹ
Lin ga chọc thẳng lên trời xanh
Yoni nằm yên đón đợi
Mùa màng sinh sôi
Con người đông đúc
Ta làm mới tâm hồn ta
Ta sinh ra những tri thức
Ta sinh ra những tư tưởng
Ta làm giàu nội tâm ta
Ta trở về chính ta ,thật ta mà ta không biết
6.BẠN BÈ
Có những lúc buồn
những câu thơ vỗ về tâm sự
có những lúc phiền muộn
tôi đối diện với trang giấy trắng
trút nỗi niềm tâm sự
không ồn ào khoe mẽ tuổi tên
viết cho tôi
như những lời thủ thỉ của sông Ba
bè bạn tôi ở khắp bốn phương trời
luôn dõi theo động viên chia sẽ
tôi vẫn tận tụy bản thảo vô danh
cho bạn cho tôi những người chiếm số nhiều trong xã hội
cho dù không còn ai đọc thơ
tôi vẫn ngồi thả lòng buông ra những câu chữ
mỗi khi thấy mình không còn sinh lực
tôi về lại Tuy Hòa
để góp gom từng kỷ niệm
làm hành trang cho những chuyến đi xa
bao bạn bè gọi tôi về
đánh thức lửa trong tôi đã mất
sau bao thời gian
để còn mãi tình yêu tuổi trẻ
với thi ca ta trở lại từ đầu
đọc cho nhau nghe những vần thơ
để biết mình sống chứ không phải tồn tại
mà khi tha hương làm theo quán tính
cảm giác này bị đánh rơi
chỉ khi trở về Tuy Hòa
ngồi vào trong lòng bè bạn
ta lại hồn nhiên ta lại tươi mới
tình bạn ở đây không toan tính
trong veo như thủy tinh
tôi và bạn giữ gìn tình cảm ấy
đừng để nó bị bóp chết bởi kinh tế thị trường
bạn bè Tuy Hòa đem lại niềm vui cho tôi
giúp tôi đứng dậy
sau gục ngã cô đơn và bất lực
trái tim tôi lại đập rộn ràng
bè bạn ơi tôi không quên bè bạn
bốn phương trời vẫn nhớ đến tôi
7.VĂN HÓA
Phú Yên là đất Phật
Phú Yên là đất tu
Có chùa Bảo Tịnh từ xa xưa
Có chùa Đá Trắng ngôi chùa cổ
Chùa Thanh Lương
Chùa Sắc Tứ Kim Cang
Chùa Nhất Tự Sơn…
Có tổ Liễu Quán khai sinh ra pháp môn Thiền Tịnh song tu
Chấn hưng nền Phật giáo trung đại
Uy đức mấy trăm năm
Còn rực rỡ thiền môn
Phú Yên có ca dao , hò vè , tục ngữ
Mang đậm khí chất Nam Trung Bộ
Có văn hóa nẫu nguồn
Về Hòa Trị ghé thăm đền thờ Lương Văn Chánh
Về Tuy An xem lễ hội Lê Thành Phương
Có thành Hồ xưa ở Hòa Định
Phú Yên vùng đất trấn biên bốn trăm năm
Sơn Hòa thị tứ đẹp một trăm năm
Xoài Đá Trắng lễ vật tiến vua
Thạch Bị Sơn ghi danh Cửu Đỉnh
Có thành An Thổ nơi sinh đồng chí Trần Phú
Tổng bí thư đầu tiên của đảng ta
Luận cương chính trị người tâm huyết
Viết trong chắt chiu ngọn gió Tuy Hòa
Có Hòa Xuân cái nôi cách mạng
Văn hóa anh em độc đáo gần xa
Phú Yên nơi thắng lợi đầu tiên của Nguyễn Huệ
Người anh hùng bách chiến bách thắng
Có khởi nghĩa của Võ Trứ
Có lễ hội cầu ngư có hò bá trạo
Có hô bài chòi
Có vịnh Xuân Đài địa danh lịch sử
Có Nhất Tự Sơn địa điểm du lịch
Bốn trăm năm không quá ngắn hay dài
Nhưng cũng đủ làm nên diện mạo một vùng đất
Nơi đây giao thoa văn hóa Chăm ,văn hóa Việt và văn hóa bản địa
Chứng tích là tiền cổ nơi đây có rất nhiều
Nước mắm gành Đỏ Long Thủy khẳng định thương hiệu
Muối Diêm Đài mặn gió biển miền Trung

 Sông Đốc - Cà Mau  2012
 
HỒ THANH NGÂN

Chủ Nhật, 16 tháng 4, 2023

DUYÊN KIẾP NGUYỄN XUÂN HOÀNG - ĐÀO ĐỨC TUẤN

 DUYÊN KIẾP NGUYỄN XUÂN HOÀNG


Mới đó mà sắp đến giỗ lần thứ 6 của Nguyễn Xuân Hoàng, một nhà văn của miền Trung giã đời ở tuổi 40. Văn và đời của anh để lại bao ngưỡng vọng, tiếc nuối cho người ở lại. Các bậc tài hoa bạc mệnh luôn là một ân hận, chông chênh cho cõi người…
Hiệp sĩ buồn
Còn nhớ một ngày mưa cuối năm 2006, anh Ba Đà Rằng, một cựu sinh viên Văn khoa Huế, gọi điện cho tôi: “Nguyễn Xuân Hoàng mất rạng sáng nay…”. Nửa tin nửa ngờ, tôi gọi cho mấy người bạn Huế, thì được đáp: “Sáng nay, vợ con lay mãi không dậy, thế là Hoàng…”. Sao thế, Hoàng ơi…?!. Trong mắt nhiều bạn viết cùng thời, Nguyễn Xuân Hoàng là một nhà báo, nhà văn trẻ tài hoa… Mới còn đọc sáng tác của Hoàng đăng báo…
Dáng mảnh mai, nói năng nhỏ nhắn mà đầy khí chất và niềm ấp iu cuộc sống. Cảm nhận của tôi về Hoàng là vậy. Cái cách ăn nói trầm ngâm, ưa sách vở mà cũng mê lang bạt như thế nên Hoàng viết tản văn, tạp bút, tản bút, tản mạn, nhàn đàm… mà anh hay gọi chung là tuỳ bút - là điều dễ hiểu. Kiểu viết này đã khắc tên Thạch Lam, Nguyễn Tuân, Vũ Bằng, Xuân Diệu, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Băng Sơn, Ngô Văn Phú… Ai bảo tuỳ bút là dễ hay khó đều có lý, ai viết cũng được nhưng viết hay thì không nhiều.
Tuy Hòa sau một đêm bù khú miệt mài, Hoàng rút tập tuỳ bút “Hương mùa thu” tặng tôi. Văn Hoàng nhỏ nhẻ, nửa mờ nửa tỏ, ấp iu từ một chiếc lá kim, đôi sợi rơm quê đến chút ngẫm ngợi về thế sự nhân tình, tuỳ bút Nguyễn Xuân Hoàng rủ rỉ xa xót và ngọt ngào từng trang, từng trang rà ruột đến cả… bìa. Hãy nghe Hoàng tả cái khát vọng cuộc đời: “Gọi mùa xuân có hoa mai vàng, nở rưng rức như khóc. Gọi mùa hạ có hoa phượng cháy đỏ, nở như bếp lửa nhà ai iu ấp. Gọi mùa thu có hoa cúc tiết Trùng cửu, hương như đường mê, vàng chưa thôi những ngày tao ngộ. Gọi mùa đông có hoa hoàng hậu nở đỏ se sắt. Xa vắng trên những cội cây cao lung linh một bầy hoa rực rỡ như vương miện” (Gọi). Ồ, thì ra cuộc đời đẹp đến vậy! Lại tưởng, người ta viết về Huế đã mòn, vậy mà Huế hiện lên trong tản văn Nguyễn Xuân Hoàng gần gụi mà hun hút khác thường. “Dường như mỗi người có một cách riêng để yêu hoa. Có người chỉ thích hoa dại. Ven bờ thành nội Huế đẹp nhất là Cổ cò, thân mỏng, hoa trắng, cánh nhỏ, hương ngai ngái xa. Đây cũng là hoa trên bàn khách của những cặp vợ chồng nghèo”… Cái “vụ” Huế này đã có một sinh viên Đại học Huế làm luận văn Huế trong tản văn của Nguyễn Xuân Hoàng…
Ngồi trò chuyện với Hoàng, nếu ai không đồng cảm thì rất thấy… cha này hơi dị dị. Bởi Hoàng chẳng những quan tâm đến một thoáng chuông ngân, mấy cọng cỏ thanh trong thơ Đường, mà còn tỉ mẩn đếm từng chiếc lá bàng bên ngoài cửa quán, hoặc cái thân cây này vì sao nhiều sẹo. Đang ngồi trong bữa đặc sản vang lừng, vậy mà chàng ta cứ nằng nặc đòi… xị rượu trắng để lên núi Nhạn sờ tay vào chân tháp cổ. Cái bản tính yêu thiên nhiên đất trời đã in ấn trong từng công chuyện của anh. “Chỉ về lá thôi cũng đã có khối chuyện nói. Đó là những câu chuyện sinh học, nghe rất lý thú. Nó mở ra trong tâm thức một sự sinh tồn triết học đáng nể. Mùa đông sở dĩ nhiều loài cây cho lá rụng là để bảo toàn nước trong thân cây. Đừng nhìn những hàng cây trơ trọi mà nghĩ là cây buồn vì thiếu lá. Rồi lá sẽ mọc lại, còn những chiếc lá cũ sẽ là kỷ niệm, của đời cây” (Trò chuyện với cây xanh). Nhà văn thì buộc phải có một chút lẩn thẩn nhưng đọc đoạn viết trên, tôi biết thêm một chuyện chưa chắc nhỏ, chợt thấy cỏ cây cũng như văn Hoàng không vẩn vơ chút nào. Đợt đi Tuy Hoà ấy về, Nguyễn Xuân Hoàng viết Tháp xưa chim Nhạn bay về…
Đọc văn bạn, chưa chắc là mến bạn. Viết về bạn, chưa chắc là khen bạn. Điều tôi lấy được từ Hoàng là cái sự tự nhiên lẽ thường, hữu xạ tự nhiên hương, mắc mớ chi mà đao to búa lớn. Thể loại tuỳ bút cũng vậy, mấy ai nên danh nên tướng từ đó. Ừ, ta se sắt mến mộ cuộc đời thì tâm cảm đôi dòng cho đỡ nỗi tan man; có gì đâu một đôi điều bày giải của anh chàng gầy rộc vùng eo miền Trung. Cái mặt nhậu đã mòn, vậy mà thỉnh thoảng giở đôi tờ báo lại thấy nhàn đàm, tạp bút, tản văn Nguyễn Xuân Hoàng khiêm khiêm xuất hiện; đã bảo có gì phải vội mà văn “cụ” này cứ riết róng bắt mình dán mắt vào rồi ngẫm ngợi lan man. “Ước mơ giản dị nhất, cũng là cao quý nhất của con người vẫn là có nhà ở, có cơm ăn, có áo mặc, và được học hành. Thời đại nào, chính sách nào, cơ chế nào cũng phải xoay quanh cái trục đó, lấy cái trục đó làm tiêu chí định lượng đánh giá sự phát triển. Xa rời tiêu chí đó một giờ, một buổi, một ngày là mất dân, mất lòng dân. Vì vậy mà cổ thư bảo chăn dân lòng sợ hãi như người cầm sợi dây mục mà điều khiển sáu con ngựa. Sách đã ghi vậy ai đọc, ai làm?”. Làm ri mà già rứa, Hoàng ơi! Mà dân viết vốn chậm lại hay cả nghĩ, vậy nên mới ngoài ba mươi cũng buộc già dặn thôi, chứ chả lẽ mãi làm “nhà văn trẻ”...
Trông vậy chứ Hoàng không phải chỉ là người hướng nội, bởi anh nguyên là một phóng viên, rồi Phó phòng Chương trình Đài Phát thanh Truyền hình Thừa Thiên Huế, hội viên Hội Nhà văn tỉnh này. Rồi vài tháng trước khi mất, Hoàng chuyển qua làm Tạp chí Sông Hương. Tôi thấy Hoàng không phù hợp với nghề báo, dẫu nghề này đã giúp anh gặp gỡ và thẩm thấu nhiều điều hay từ những người giàu tư chất.
Một trong những người Hoàng may mắn gần gũi là nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường; có lẽ đây là một sự thôi thúc tự nhiên cho Hoàng đắm đuối nghiệp viết? Trọng thầy mới được làm thầy, hình như tôi chưa đọc ai viết về nhà văn một cách ấp iu thơm thảo như vầy: “Tết này, nhà nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường hoa mai vàng rực rỡ. Ngồi trên chiếc xe lăn, đôi mắt hiên hiến đã lại thần của ông nhìn đăm đăm lên những chiếc lộc nõn xanh non nớt màu lá hoàng mai hoa xứ núi… Thế mà bước chân ham chơi mê mãi một thời phiêu lãng đã tạm dừng lại. dừng lại cả chiếc gạt tàn một đêm mấy lần đầy vun có ngọn. Dừng lại cả chiếc sọt nhựa đong đầy những trang bản thảo viết vội…” (Vui Tết với nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường).
Tôi hiểu, đời văn chân chính nào mà không phơn phớt buồn. Đành lòng vậy mà Nguyễn Xuân Hoàng vẫn đủng đỉnh đưa chân vào cõi mịt mù…
Cõi Hoàng ở lại
Cõi tạm phù hoa là tập sách thứ 5 và là cuốn thứ hai của Nguyễn Xuân Hoàng do bạn bè góp tay in; chắc là cuốn sách cuối của Hoàng. Đầy đặn 360 trang sách với chân dung “người buồn trước tuổi” đằm đặm trên bìa đen trắng. Sau “Hồn mai” (2007) cũng với ngần ấy trang tùy bút do bè bạn góp tay in, lần này là Cõi tạm phù hoa với 20 truyện ngắn, 17 bài thơ, 9 chương của cuốn “Bút ký chân dung nhạc sĩ Trịnh Công Sơn” sắp hoàn thành (Mà cũng coi đã hoàn thành. Hoàn thành cả một đời văn ngồn ngộn ơn đời) và 8 bài viết của bạn bè về Hoàng. Mới đó mà đã 5 năm, nhà văn của rao rát miền Trung này rời cõi tạm ở tuổi 40. Nguyễn Xuân Hoàng là người con Quảng Ngãi, thành danh tại Huế.
Ở đất Thần kinh, dân văn nghệ thường lưu truyền “Bạn bè ở Huế thương nhau thiệt / Một đứa vợ la, cả bọn kinh”. Thế nhưng được bạn tương kính như Nguyễn Xuân Hoàng thì không nhiều. Vượt qua bao mè nheo cuộc sống, họ vẫn đăm đắm cái tình với Hoàng, với văn tài của anh. 5 năm, hai cuốn sách tấm lòng đặt trên bàn thờ Hoàng, mà lại tin đẹp và trang trọng lắm. Hỏi trong cõi tạm này, ai bằng Hoàng?
Không hẳn là tiếc nuối, mà thực chất là bởi Hoàng đẹp. Đẹp từ dáng vóc, nhân cách đến tài năng. Bởi Hoàng là một di sản của Huế. Bởi Hoàng đã đối đãi quá đẹp, quá hậu hĩ với đời, với mỗi người anh gặp. Và đời cảm thấy nợ Hoàng chăng? Nhiều khi tôi băn khoăn: không hiểu Hoàng lấy đâu ra năng lượng để sống và làm việc gấp nhiều như thế? Có lần Hoàng đã trả lời: nhờ... cỏ! Nhưng rồi Hoàng phải đi sớm vì chăng nỗi thương yêu và nỗi buồn đã quá sức bình sinh...
Về tùy bút Hoàng, nhà thơ Mai Bá Ấn viết: “nếu Nguyễn Tuân ra đi đã trao thể bút ký và tùy bút lại cho Hoàng Phủ, thì người xứng đáng mà sau này Hoàng Phủ trao lại thể loại này, chắc chắn là Nguyễn Xuân Hoàng chứ không ai khác… Vậy mà, Hoàng ra đi quá sớm…”. Riêng trong truyện ngắn, chất duy mỹ, ôm níu con người của Hoàng lại làm người đọc bất ngờ từ một hướng khác. Truyện ngắn Nguyễn Xuân Hoàng là những nhát cắt ma mị, kết tinh tâm thức của người văn sớm thấu lẽ đời. Vẫn lối nói rủ rỉ cúi thấp xuống phù sinh, truyện ngắn Hoàng luôn có sức cám dỗ mãnh liệt bất kỳ người nào lỡ đọc đôi dòng đầu tiên. Cách dựng truyện của anh thoải mái đến nỗi không còn ai nhận ra ấy là bịa. Lối viết không quá câu nệ vào cốt truyện nhưng sâu xoáy hút hồn bằng nhạc cảm, làm tôi liên tưởng đến bút pháp Pautopxki.
Một hình bóng Nguyễn Du (trong Tri huyện Phù Dung) “Nguyễn yêu cái đẹp còn hơn cả sinh mệnh mình”. Một cô gái câm đành nghề bán hoa luôn đau đáu tình cật ruột (trong Cây liễu bên bờ sông vắng) “chỉ thích nghe lời của cỏ cây”. Một cách cắt nghĩa tình yêu (trong Quân bài trắng) có câu sấm “Một người tốt không thể thiếu tham vọng”... Làm ai lỡ đọc cứ mãi bị ma ám. Nhiều bạn văn công nhận, Hoàng đã tự họa chính xác chân dung mình “một nghệ sĩ bẩm sinh, là người duy mỹ đến tận cùng” (trong Quê cha). Lôi cuốn một cách êm dịu riết róng, mỗi truyện ngắn của Nguyễn Xuân Hoàng đã nhi nhiên để lại một thông điệp.
Rồi khi làm thơ (thường thì Hoàng làm thơ để hát mỗi khi uống rượu với bạn bầu), tài hoa nơi anh lại lấp lánh một cõi lạ. Những bài thơ thương tật / trên chiếc bàn thương tật / làm chi / nếu đời anh không thương tật (Câu chuyện về thơ). Tôi đợi bóng quạ mang về đêm tàn / tôi khát đôi môi em ngày tôi còn sống / tôi nhớ đắng ngắt miệng môi tôi / ngày tôi yêu em (Cho một tương lai). Đôi khi tâm hồn tôi phiêu lãng thiên đường / kể cho thân xác nghe câu chuyện về địa ngục / đôi khi thiên thần gãy cánh / thân xác kể cho tâm hồn nghe câu chuyện thiên đường (Câu chuyện thiên đường)...
Viết tập ký về Trịnh Công Sơn, mỗi câu mỗi chữ của Hoàng ánh lên niềm hạnh ngộ. Dòng đầu thiên bút ký, Hoàng viết “Ngày 28.2.1939, cậu bé Trịnh Công Sơn ra đời tại Buôn Ma Thuột...” (chương 1: Ngày của tin buồn); dòng cuối thiên bút ký, anh viết “Bậc thức giả ấy vẫn tiếp tục hành giả, giúp con người thấy rõ gương mặt tình yêu, những hóa thân như có phép chỉ xuất hiện khi ai đó chợt nhận ra những giấc mơ đời hư ảo” (chương 9: Bậc á thánh của siêu hình). Thế là trọn vẹn, có dẫu còn dang dở nhưng đó vẫn là một trong những cuốn sách về Trịnh thành công nhất. Cũng phải thôi, chân tài gặp nhau, như nhà văn Lê Huỳnh Lâm đã viết: “Có sự gắn kết nào đó gần như là định mệnh giữa hai con người: Trịnh Công Sơn và Nguyễn Xuân Hoàng... Ngày Sơn mất (1.4.2001), Hoàng đi suốt đêm, đi như một bóng ma, cứ bước mà không biết về đâu. Bước chân Hoàng lan man thầm lặng rơi cùng những giọt lệ héo khô theo những giai điệu của Sơn...” (Có một dòng sông đã qua đời).
Chẳng biết 5 năm sau, Hoàng mất, Sơn có lệ rơi...

VIẾT CHO CON TRAI NHÂN NGÀY KHAI TRƯỜNG - TRƯƠNG VĂN LIN

 Viết cho con trai nhân ngày khai trường


Vậy là, con đã vào lớp một, bậc đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc gia – Giáo dục tiểu học. Vậy mà ba chẳng làm được gì cho con, vì tất cả mọi việc từ áo quần, sách vở mẹ con đã lo chu toàn. Cái duy nhất mà ba có thể lo được cho con là: Chạy cho con vào một trường điểm nào đó. Nhưng ba đã không làm.

Ba đã không xin cho con vào trường điểm, vì ngôi trường đó thật ra cũng chẳng “điểm” lắm đâu. Có lẽ do đồn đãi, quá nhiều người “chạy” vào nên nó trở thành “điểm”. Cũng như các “sao” lên vùn vụt nhờ công nghệ lăng xê ấy mà. Rồi nữa, khi ngôi trường đã trở thành “điểm”, mức đóng góp sẽ cao hơn. Bạn bè con đáng lẽ được học ở trường đó, do hoàn cảnh khó khăn, không đủ sức đóng góp lại bị dạt sang trường khác ít “điểm” hơn. Thôi con ạ, lọt ra ngoài tấm chăn “trường điểm”, ba sẽ chăm sóc con bằng cách khác.

Ba lại nhớ đến cái thời ba đi học. Ba học lớp vỡ lòng (như lớp mẫu giáo của con bây giờ) ở trường làng do bác Hai con dạy. Trong khuôn viên trường có thêm trụ sở của thôn, nơi ông nội con làm việc (hồi ấy gọi bằng ấp) nên nó được gọi là Trường Lẫm. Thời chiến tranh, ở các cơ quan, công sở người ta thường đào các giao thông hào. Đây là thiên đường của ba và bạn bè. Cứ đến giờ ra chơi lại ra móc đất sét, nặn tất cả mọi thứ theo trí tưởng tượng của mình. Vào lớp, áo quần dính đầy đất sét, thế nào ba cũng bị bác Hai cho mấy roi vào mông.

Vào tiểu học, ba được học ở trường Tiểu học cộng đồng, kiến thức cũng chỉ gói gọn trong mấy quyển sách Tân Việt văn và sáu môn học yếu lược, tám môn học yếu lược. Đâu phải mang chiếc cặp nặng hàng mấy ký như con bây giờ. Học một buổi, một buổi tha hồ rong ruổi với các trò chơi bắt dế, thả diều, bắn bi, đánh trống… chẳng phải học cua, học kèm thích lắm con ạ.

Ba học cấp II sau giải phóng, cũng ở ngôi trường này, nhưng nó đã già nua, xuống cấp rất nhiều, mùa mưa cả lớp nháo nhào chạy mưa là chuyện thường. Đây là thời gia đình ta khó khăn nhất, sau giờ học ba đã biết giúp đỡ ông bà nội những việc lặt vặt. Ở trường, giờ lao động nghiêm túc hơn giờ chính khóa. Trường còn thành lập “Hợp tác xã Măng non” để học sinh lao động gây quỹ. Ba nhớ, hình như ba là thành viên Ban Quản trị của cái Hợp tác xã này.

Lên cấp III, ba được học ở trường huyện, cách nhà nội chừng 15 cây số. Nhà mình nghèo, có hai chiếc xe đạp ưu tiên để bác Bảy và mấy cô con chở giống, chở phân… đi làm ruộng. Ba đi học phải ở trọ nhà người ta, nói đúng hơn là ở ké (vì đâu có mất tiền trọ). Đầu tuần theo xe đạp bạn bè ra, cuối tuần theo về. Đã đi theo xe thì phải chở bạn. Mùa nắng còn đỡ, mùa mưa phùn, gió chướng chở được bạn qua khỏi cánh đồng trống khoảng năm sáu cây số, vất vả (nếu không nói là cực nhọc) vô cùng con ạ.

Suốt những năm học cấp III, trong các kỳ nghỉ hè ba và bạn bè đã biết làm đủ các nghề như hái củi, đốt than, làm gạch… để kiếm tiền chuẩn bị cho năm học sau, để ông bà nội đỡ lo. Khổ nhưng mà vui lắm!

Rớt đại học lần đầu, ba ở nhà làm ruộng và đủ các nghề linh tinh khác ở nông thôn, phụ với bác Bảy con chèo chống gia đình mình, vì bấy giờ ông nội con đã mất sau một thời gian dài bị bệnh. Nhà mình lâm vào cảnh rất nghèo con ạ. Mấy năm sau, bằng sự cố gắng của cả gia đình, ba thi lại và đậu đại học. Ba và cả gia đình mừng như nhà có hội (Hồi ấy, thanh niên được mang cái mác sinh viên sang lắm con ạ).

Học đại học thời bao cấp, Nhà nước lo gần như toàn bộ, gia đình rất ít tốn kém. Thế nhưng đã bao cấp thì làm gì có đầy đủ, nên chuyện đói khổ, thiếu thốn của sinh viên đã thành “chuyện không của riêng ai”. Bốn năm sinh viên đi qua, ba cũng tích tụ một ít kiến thức để vào đời.

Ra trường, tuy hơi vất vả và cuối cùng ba cũng kiếm được một chỗ làm. Thấm thoát, vậy mà đã qua 15 năm làm công chức Nhà nước. Tuy chẳng dám gọi là thành đạt, thành danh, nhưng ba đã có một việc làm ổn định và lương thiện, không xấu hổ với đồng lương mình nhận để nuôi con ăn học nghiêm túc, đàng hoàng hơn thời ba đi học.

Đi học, ai chẳng muốn mình ngồi trong ngôi trường có nhiều chính khách, nhà khoa học, văn nghệ sĩ từng ngồi. Ba tin rằng những thế hệ sau con sẽ rất tự hào khi được ngồi trong ngôi trường mà con từng học. Hãy cố gắng nghen con!

(nguồn:vandalat11.blogspot.com)

LÀNG QUÊ MÃI Ở TÂM HỒN - NGÔ PHAN LƯU

 LÀNG QUÊ MÃI Ở TÂM HỒN

(Đọc LÀNG TÔI của Nguyễn Đắc Hoa – Tập tản văn & truyện ngắn – NXB Hội Nhà Văn - 2010)
Sau tập truyện ngắn LẼ ĐỜI được NXB Đồng Nai in năm 1995, nay nhà báo Nguyễn Đắc Hoa mới ra mắt tập tản văn & truyện ngắn LÀNG TÔI do NXB Hội Nhà Văn xuất bản năm 2010. Khoảng cách hai đứa con tinh thần là 15 năm. Điều này ngầm nói lên rằng, cái duyên nợ văn chương của Nguyễn Đắc Hoa quả là sâu dày, đeo đuổi mãi không thôi.
Trong tác phẩm LÀNG TÔI, riêng phần Tản văn được chia làm hai nhóm: Một thời để nhớ và Đặc sản quê tôi. Rồi mới tiếp theo là phần Truyện ngắn.
Một thời để nhớ có thể gọi là ký ức làng. Những kỷ niệm làng đã được lọc qua năm tháng vẫn tồn tại trong ký ức tác giả tạo thành một hồn quê sâu thẳm thân thương. Nào “cái thú của người đi đâm chuột”, nào kỷ niệm khó quên của thời đi chăn bò”, nào “Kỷ niệm lần đi thi đại học”, nào “lần đầu đi buôn”, nào “nhớ mùa bắt ếch”, nào “nhủi tép”, nào “Tết về nhớ tiếng heo la”, nào “mùa đom đóm”, rồi lại “yêu thầm” v.v…Tất cả những sự việc quan trọng hay không quan trọng đều được tác giả trân trọng như nhau. Tại sao vậy? Tại vì chúng đã trở thành kỷ niệm khó quên đã theo suốt cuộc đời tác giả.
Đặc sản quê tôi có thể gọi là văn hoá ẩm thực làng. Những món ăn dân dã và truyền thống đã khắc sâu vị giác quê hương vào tâm hồn. Nào “ăn cá Ngừ đại dương”, nào “chả Dông Phú Lâm”, nào “bánh tráng cuốn thịt heo quán bà Năm cháo lòng”, nào “nhớ tiếng Cốm rang và mùi bánh Thuẫn” v.v…Tất cả những món ăn tuy tầm thường nhưng đã hình thành một nền tảng khẩu vị của hồn quê tác giả.
Tác giả Nguyễn Đắc Hoa có tài viết tản văn. Ông viết rất giản dị. Giản dị đến cả cái nhan đề của mỗi bài tản văn. Viết giản dị là một chuyện không dễ. Kinh nghiệm sống nhiều, kiến thức nhiều, tâm hồn sâu lắng mới có được sự giản dị: “Hằng năm, những lúc nhớ quê, tôi thường về thăm bà con, họ hàng, chòm xóm ở đây. Lần nào về quê, tôi cũng ghé thăm khu vườn chỉ còn cái nền nhà của mình. Những lần như vậy, tôi chỉ biết dạo quanh vườn một vòng, mường tượng ra ngôi nhà cũ đã gắn bó cả một thời tuổi trẻ của mình, rồi ngậm ngùi lủi thủi ra về” (Chái nhà thân thương). Ở đây, chúng ta không gặp một văn bản mà là gặp một con người. Một con người dung dị, không cường điệu tình cảm, mang một “cái tôi” đơn giản nhẹ nhàng.
Sang phần Truyện ngắn có thể gọi là những khắc hoạ cuộc đời thường nhật. Những suy nghĩ và tình cảm bám rễ sâu vào tình người, vào đạo đức, vào truyền thống. Những truyện “con chó vàng”, “con két biết nói’, “hai đứa cháu”, “trở về” và “chuyến đi vào đời” đều thể hiện rõ tính đa dạng của nhân bản. Có lẽ ở tác giả Nguyễn Đắc Hoa, người cầm bút sáng tác là người làm một việc có ích lợi thật sự cho tâm hồn độc giả dù rất nhỏ nhoi.
Đặc biệt trong truyện ngắn “Con két biết nói”, với nhiều chi tiết lạnh lùng đan xen vào nhau tạo nên một nghịch lý đau xót mà nguyên nhân bị khuất lấp đã làm người đọc phải suy nghĩ. Con két được ông chủ cắt lưỡi để tập nó nói tiếng người. Và nó đã bắt chước tiếng người khá nhanh. Ông chủ về, con két luôn mồm: “Chào anh ạ. Hôm nay trông anh Hai trẻ ra, lại đẹp trai nữa”. Ông chủ sung sướng, phổng mũi. Thế là ông cho nó ăn chuối Tiêu. Con két lại rối rít: “Cảm ơn anh Hai. Cảm ơn anh Hai”. Những câu con két bắt chước nói, là những câu của khách khứa vào nhà đã nói với ông chủ. Do đó, ông chủ có thể sung sướng đến hai lần khi nghe con két nói thế. Nhưng một hôm, cũng chính những câu nói ấy của con két phát ra, đã làm ông bực dọc, nổi điên. Ông bóp nhẹp và dày xéo chiếc lồng, miệng hằn học, đay nghiến: “Trẻ đẹp, trẻ đẹp cái nỗi gì? Cái nỗi gì? Tại sao lúc nào mày cũng anh anh em em ngọt xớt với tao? Đồ con vật. Con vật mà nói tiếng người”. Con két giãy đành đạch trong chiếc lồng bẹp dúm giống như khuôn mặt ông chủ của nó lúc này: “Cảm ơn anh Ha a…a…ii”. Riêng tôi, tôi cứ muốn hiểu rằng, lão chủ ấy vừa chửi rủa con két và chửi rủa những người nịnh bợ cùng một lúc.
Sách trình bày đẹp, ấn tượng. Bìa in cảnh làng quê qua âm bản, dường như làng quê đã qua tâm hồn.
Chúc mừng thành công này của Nguyễn Đắc Hoa và thân ái giới thiệu cùng bạn đọc báo Nông Nghiệp Việt Nam một tác phẩm viết về nông thôn với bao tình cảm thân thương sâu lắng.

Tp. Tuy Hoà ngày 6-9-2010
NGÔ PHAN LƯU 

Thứ Sáu, 14 tháng 4, 2023

BUỔI SÁNG Ở QUÁN CÀ PHÊ - HỒ THANH NGÂN

 

BUỔI SÁNG Ở QUÁN CÀ PHÊ

Quán cà phê chuyện cũ mới rối bời

Ly cà phê thơm rưng hoài niệm

Người mất được sống lại trong ký ức

Sự thật đượm màu thiêng liêng

 

Người hóng bản tin cuối ngày đỏ lửa

Kẻ góp vui vỡ trận cười tiếu lâm

Đôi mái đầu thủ thỉ

Góc quán râm ran chuyện dửng dưng

 

Thì thôi buổi sáng quen

Những gương mặt quen

Tôi muốn mình mới lạ khác

Từ một tâm thức quen

12/12/2021

THẠCH ĐÀ

Thứ Hai, 10 tháng 4, 2023

NUÔI CON LỚN ĐỂCON ĐI CHIỀU HÔM TỰA CỬA NGÓNG GÌ MẸ ƠI! - HỒ THANH NGÂN

 

NUÔI CON LỚN ĐỂ CON ĐI

CHIỀU HÔM TỰA CỬA NGÓNG GÌ MẸ ƠI!

Tưởng nhớ nhà thơ nhà giáo Trần Hữu Nghiễm (1950- 2001)

 

Đây là hai câu thơ của anh    nhờ thơ tôi nhớ đến anh, nhà giáo nhà thơ Trần Hữu Nghiễm. Tôi đồng cảm vớ anh . Anh từ Huế vào Tây Ninh day học và sống ở Cà  Mau . Tôi từ Tuy Hòa vào Cà Mau dạy học và sống  ở Sông Đốc. Anh cả đời  tha hương. Tôi thì hai mươi năm tha hương. Anh xa quê xa mẹ,viết như rút ruột ra mà viết . vì thế mỗi khi nhớ nhà, tôi đều đọc thầm hai câu thơ của anh như một lời an ủi :

Nuôi con lớn để con đi

Chiều  hôm tựa cửa ngóng gì mẹ ơi!

 Trần Hữu nghiễm sinh 1950 tại Huế ,mất 2001 tại Cà Mau . Anh đã xuất bản hai tập thơ : Xao xuyến không tan 1989 và Trần Hữu Nghiễm thơ 1990.

Tôi vào Cà Mau năm 2003. Biết anh mất năm 2001, mấy lần định  ghé nhà anh : 249 Quang Trung phường 5 thành phố Cà Mau thắp hương . Lại rụt rẻ , e ngại : nghĩ mình lạ, người nhà ai biết mình . Đó là cái tình của người cầm bút mà anh, văn kỳ thanh bất kiến kỳ hình .

Đọc thơ anh thơ của một người cô đơn ở nơi tận cùng đất nước:

Đã hơn mười năm, có phải?

Tôi già như thể người xưa

ở nơi tận cùng đất nước

độc ẩm buồn thương giữa khuya

( Những hàng cây  giã tỵ ) 

Hạnh  phúc của anh cũng đơn sơ bé nhỏ , nghĩ mình như cây cỏ, bạn bè với đất trời:

Ơ hay ta hết buồn từ độ

Hiểu được đời ta là cỏ cây

Trời đất bổng dưng thành bè  bạn

Câu hát người xưa tưởng của mình

( hanh phúc )

Anh cô đơn cần tri kỷ tri âm :

Hỡi ơi tri kỷ từ muôn kiếp

Biết đến bao giờ ghé đây thăm

( Đêm Cà Mau)

Thèm bạn cùng ta ngồi đối ẩm

Chuyện trò cho đỡ nhớ đỡ quên

Thèm bạn cùng ta ngồi im lặng

Cùng trăm năm gởi một nỗi niềm

( Đêm Cà Mau )

Đôi lúc anh ngậm ngùi một mình:

Người đi lầm lũi

Nhớ về chốn xưa

Xin lòng vô ưu như ngày tháng

Xin lòng vô ưu cùng cỏ cây

( Ngậm ngùi )

Sống với văn chương chữ nghĩa là niềm đam mê của anh :

Sống cùng những điều không thực

Hạnh phúc như là trong mơ

( Bạn tôi)

Anh làm thơ đăng báo nhiều, để kiếm tiền nuôi con ăn học.

Nếu anh còn sống . tôi nghĩ chắc anh đạt kỷ lục. anh có bài thơ : Người thầy giáo già đăng 28 báo ở Việt Nam năm1995.

 

Sông Đốc – Cà Mau 11/4/2023

THẠCH ĐÀ

Thứ Bảy, 8 tháng 4, 2023

ĐÂU DỄ GÌ BỤI THỜI GIAN LÃNG QUÊN ? - HỒ THANH NGÂN

 

ĐÂU DỄ GÌ BỤI THỜI GIAN LÃNG QUÊN ?

Nhớ anh Nguyễn Sỹ Hào ( 1968- 1998)

 

 

Hồi ba năm cấp ba ở Tuy Hòa, mình gởi bài cộng tác khắp nước. Anh Sỹ Hào biên tập tờ Sinh Viên nhà xuất bản Trẻ. Mình gởi bài cộng tác tờ báo thông qua anh từ năm 1994- 1997. Báo không có nhuận bút . Mấy anh sinh viên ra Tuy Hòa bán báo, gây quỹ học bổng cho sinh viên. Biết mình có bài đăng, mấy anh tặng cho tờ báo vậy là vui rồi. Thỉnh thoảng đọc thơ anh đăng báo. Sinh thời anh không xuất bản tập thơ riêng. Chỉ in chung bạn bè văn khoa tập Trăng Văn Khoa.

Năm 1986 cả huyện Trần Văn Thời chỉ có hai người đậu đại học TPHCM, trong đó có anh Nguyễn Sỹ Hào. Anh đâu trường ĐHTH nay là trường KHXH&NV. Nhà nghèo vừa học anh vừa làm báo . Chủ xị mấy tờ Sinh Viên của nhà xuất bản Trẻ. Nhà thơ Nguyễn  Đăng Trình  giới thiệu nhà thơ trẻ Nguyễn Sỹ Hào số đầu tiên tạp san Thời Văn do nhà thơ chủ biên. Tôi nhớ tựa đề bài thơ có tên : Minh Hải Chiêu Mưa Bay năm 1995 . Năm 1998 tôi vào ĐHSPQN thì anh mất . Anh Hào mất đi để lại tiếc thương cho gia đình , bạn bè và người yêu. Âu cũng là số phận, tai nạn nghề nghiệp của nghề làm báo, của tuổi trẻ.  

Năm 2003 đặt chân đến Sông Đốc, biết anh từng sống ở Sông Đốc .tôi đến nhà thắp hương cho anh. Duyên tình cờ , biết được em anh Nguyễn Sỹ Hào Kiệt một tâm hồn nghệ sỹ. Nhà thơ Quốc Sinh – Me Biển bút nhóm Vòm Me Xanh của báo Mực Tím. Anh hiện đang sống ở Nha Trang –Khánh Hòa.  

Năm 2017 anh ghé Sông Đốc . Anh tâm sự : anh học sau anh Hào  sáu khóa.khi anh mới bước chân vào giảng đường thì anh HÀO  đã ra trường và có tiếng vang trên văn đàn.

Đám giỗ anh 28/5 al hàng năm . Nhớ đến anh tôi làm tặng anh vài bài thơ. Chỉ để nhắc nhở một điều : có một nhà thơ tài hoa mệnh bạc từng sống ở Sông Đốc.

 

 

Sông Đốc – Cà Mau 8/4/2023

THẠCH ĐÀ

 

NGƯỜI ĐI NHƯ NỐT NHẠC TRẦM

Ba mươi năm dương thế

Ngẩng đầu nhìn mây bay

Gặp nhau nơi cuối đất

Ly buồn chén rượu cay

 

Câu thơ không tiếng vọng

Không có ai đò đưa

Vẫn cơn mưa thuở trước

“ Minh Hải chiều mưa bay “

 

“ Trăng Văn Khoa” lặng lẽ

Người đi như nốt trầm

Ngắn dài âu phận số

Lấy gì đo trăm năm?

 

Giờ em ngồi trên sóng

Cửa biển chiều tháng Năm

Câu thơ như nốt nhạc

Lặng thầm trong vô âm

Sđ 7/10/2020

 

ĐÂU DỄ GÌ BỤI THỜI GIAN LÃNG QUÊN?

Chiều mưa nay tôi ngồi nhớ đến anh

Người đã  đi xa nghìn trùng

Đâu dễ gì bụi thời gian lãng quên?

Khi những câu mọc mầm thức dậy

 

Gương mặt thời gian phủ nhòa  năm tháng

Trái tim lương thiện câu thơ hiền lành

Đâu phải cái gì cũng mong manh?

Khi con chữ đứng về phe nỗi đau thầm lặng

 

Bây giờ không còn anh

Nhưng tên anh còn ẩn ở phía sâu thế hệ kế tiếp

Riêng điều này tôi biết

Những câu thơ còn mãi với niềm tin

Sđ 14/10/2020

BÀI MỚI ĐẮNG

Truyện ngắn: BÊN CÁNH GÀ CHÁNH ĐIỆN _ NGUYỄN HẢI ĐĂNG

Bên cánh gà chánh điện phần 1 BÊN CÁNH GÀ CHÁNH ĐIỆN Xe dừng lại với tiếng xột xoạt trên mặt đường, như bao chuyến xe đã ghé qua từ thuở ...