Bái biệt anh nhé, nhạc sĩ Ngọc Quang!
thư từ bài vở xin gửi về : hothanhngancm@gmail.com HỒ THANH NGÂN Hội viên hội văn học nghệ thuật Cà Mau Hội viên hội văn học nghệ thuật Phú Yên Hiện sống và viết tại Cà Mau Tác phẩm đã xuất bản : Sông Đốc Ngày Nắng Muộn - Nxb Thanh Niên (2016) Phương Nam Lộng gió - Nxb Hội Nhà Văn (2018) Trường Ca Nhớ Phú Yên - Nxb Hội Nhà Văn (2019 ) Chiều Ở Phía Ngược Gió - Nxb Hội Nhà Văn (2020)
Thứ Tư, 23 tháng 2, 2022
BÁI BIỆT ANH NHÉ , NHẠC SĨ NGỌC QUANG - LÊ THIẾU NHƠN
Nhạc sĩ Ngọc Quang tên thật Nguyễn Ngọc Quang, sinh năm 1954. Nhạc sĩ Ngọc Quang không chỉ là hội viên Hội Nhạc sĩ Việt Nam, mà còn được phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ Ưu tú vì những đóng góp tích cực và bền bỉ trong hoạt động biểu diễn chuyên nghiệp.
Nhạc sĩ Ngọc Quang cả đời gắn bó với Phú Yên. Ông bắt đầu con đường sáng tác trong phong trào văn nghệ quần chúng ở huyện miền núi Sơn Hòa. Đam mê và nhiệt huyết, nhạc sĩ Ngọc Quang lần lượt được tín nhiệm vào các vị trí Trưởng đoàn ca múa nhạc Sao Biển, Giám đốc Sở Văn hóa Thể thao tỉnh Phú Yên, Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Phú Yên.
Đi lên từ rơm rạ nông thôn, cuộc đời của nhạc sĩ Ngọc Quang có những sự thành đạt đủ để bản thân ông hài lòng. Thế nhưng, điều đáng quý nhất ở nhạc sĩ Ngọc Quang là ông luôn sống đúng với chính mình. Khi đã thành quan chức địa phương, nhạc sĩ Ngọc Quang vẫn giữ nguyên phong cách nghệ sĩ dân dã, gần gũi và phóng khoáng từ hành vi cho đến lời nói.
Nhạc sĩ Ngọc Quang hiền lành và chất phác, nhưng ông không chút mặc cảm trước những văn nghệ sĩ lừng lẫy quốc gia, như vài lãnh đạo văn nghệ tỉnh lẻ khác. Bởi lẽ, nhạc sĩ Ngọc Quang luôn cởi mở và cầu tiến, không sợ sai và không giấu dốt. Vì vậy, nếu dõi theo hành trình sáng tạo của nhạc sĩ Ngọc Quang một cách kỹ lưỡng, sẽ thấy ông luôn tự rèn luyện để từng tác phẩm thêm mới mẻ, thêm sâu sắc trong khao khát ca ngợi vẻ đẹp con người và xứ sở đã ôm ấp và cưu mang mình.
Xưa nay, muốn tìm danh sư hoặc tìm trạng nguyên, đều phải đến chốn kinh kỳ. Làm nghệ thuật ở tỉnh lẻ rất khó, vì ít cơ hội tương tác với những người đồng điệu để truyền cho nhau cảm hứng nghề nghiệp. Mảnh đất Phú Yên từng sản sinh nhiều nhạc sĩ nổi tiếng như Nhật Lai (tác giả “Hà Tây quê lụa”) hoặc Trương Tuyết Mai (tác giả “Huế, tình yêu của tôi”) nhưng họ đều có thành tựu khi rời xa nơi chôn nhau cắt rốn để hòa nhập vào bầu khí quyển sáng tạo rộng lớn hơn.
Nhạc sĩ Ngọc Quang sống giữa đèo Cả và đèo Cù Mông, đã rất nỗ lực để vút lên những giai điệu riêng tư trong không gian trầm lắng những số phận quanh quẩn áo cơm nhọc nhằn và nhẫn nại. Nhạc sĩ Ngọc Quang vừa làm tròn trách nhiệm công chức vừa tranh thủ viết được hơn 300 ca khúc, vừa vun vén một studio để có điều kiện công bố tác phẩm của mình và bạn bè, đã là một thái độ lao động đáng nể trọng.
Trong những ca khúc viết về Phú Yên được nhiều người yêu thích, hùng ca thì công chúng biết đến nhạc sĩ Văn Chừng (1938-2006) còn tình ca thì công chúng nhắc đến nhạc sĩ Ngọc Quang với “Yêu lắm quê mình”, “Hồn đá”, “Thạch bi sơn”...
Nhạc sĩ Ngọc Quang phát hiện bị ung thư vòm hầu từ năm 2020. Ông đã lạc quan chống chọi, và lặng lẽ ra đi vào lúc 16h45 ngày 21/2 thăm thẳm gió lạnh, mà những người Phú Yên vẫn ngân nga bài hát quen thuộc của ông: “Nắng trải đồng vàng thênh thang vựa thóc/ Dáng ai trên đồng đẹp tựa lúa xuân/ Dẫu qua trăm núi nghìn sông/ Thì quê hương cũng ở trong tim mình”.
Ảnh: Nhạc sĩ Ngọc Quang hát bên lính đảo trong một chuyến lưu diễn ở Trường Sa năm 2014.
ĐỌC ĐÁT NƯỚC CỦA MẠC PHONG TUYỀN - KHANG QUỐC NGỌC
NHỮNG VỆT TRẦM TÍCH VĂN HÓA ĐAN CÀI TRONG BÀI THƠ “ĐẤT NƯỚC” CỦA MẠC PHONG TUYỀN ( Mạc Phong Tuyền )
Mở đầu bài thơ và cũng là điểm nhấn đầu tiên cho cả bài là điệp ngữ “Tôi viết về…” xuất hiện như một xác quyết dõng dạc kiểu tuyên bố rằng là như thế, nghe vừa trịnh trọng vừa khoan thai đĩnh đạc. Tiếp đó, câu chữ Mạc Phong Tuyền rê qua nhiều lớp lang và mở dần biên độ, từ cá nhân, đến gia đình, rồi lên dần đến tầm vóc quê hương và vút vào bung tỏa ra thành hình tượng tổ quốc. Rõ ràng, tác giả đã rất có chủ ý đan cài văn hóa khi viết về đất nước. Một sự khoanh vùng khá ấn tượng. Bởi thế, hình tượng tổ quốc như lớn dần lên theo sự xếp đặt tương đối bài bản và trật tự sắc thái nghệ thuật mang màu sắc riêng. Một sự trừu tượng được chi tiết và hình ảnh hóa nên đọc “Đất nước” chúng tôi có cảm tưởng như đang được xem một bộ phim tài liệu nói về tổ quốc của một người yêu thương đất nước đến tận cùng.
Viết về đề tài lớn và khô nhưng đã được tác giả làm cho mềm hóa bằng ngôn ngữ thơ tự nhiên, giàu thi ảnh. Đó là những không gian tế bào xã hội tạo ra đất nước. Đây là thành công đáng ghi nhận của tác giả. Cảm xúc mềm mại và lí trí mạnh mẽ đan cài cứ sáng trưng lên trong bài thơ là những dấu hiệu cho tiếng thơ độc đáo Mạc Phong Tuyền. Lời thơ không hề có ý giải thích mà lại nghe như đang giải thích, cái có được đặt trong cái thế không như thế, nghe vừa mềm vừa lạ, nền nã thuyết phục trong một giọng điệu tự nhiên bản thể. Điều ấy đã đẩy tiếng thơ anh tiệm cận chân lí: Đất nước sống mãi trong văn hóa dân tộc.
Đầu tiên, hình tượng đất nước được hiển lộ qua vài nét về văn hóa làng. Một làng quê hiện ra với những hình ảnh đặc thù của một vùng nông nghiệp làng xã thân quen “Tôi viết về người đàn bà chờ tôi ở rịa làng/ Nơi con rô đồng lách bùn hoa thành rạch/ Nơi con thuyền nan dũi đất thành ngòi/ Và bầm đỏ loài hoa không nõn hạt mùa chiêm nhưng người ta đặt tên là hoa gạo...”. Giọng thơ nhẹ nhàng từ tốn mà sâu sắc. Những hình ảnh “người đàn bà chờ tôi ở rịa làng”, “con rô đồng lách bùn hoa thành rạch”, “con thuyền nan giũi đất thành ngòi” đã vẽ lên sự sinh hoạt đồng áng sống động một thời khá quen thuộc của người nông dân Việt Nam. Ở đó còn có sự thăng hoa cảm xúc của người lao động chân lấm tay bùn “loài hoa không nõn hạt mùa chiêm nhưng người ta đặt tên là hoa gạo…”. Những từ ngữ tương đối xa lạ đặt liền nhau trong cái thế phủ định đã tạo ra sự va đập ngữ nghĩa rất lạ, dường như cái tên “hoa gạo” kia cứ là phải tôi rèn sau một quá trình “bầm đỏ loài hoa” nên mới được mang tên như vậy? Nó gợi ra cả một quá trình khai nở và trưởng thành đầy vất vả hệt cây lúa lớn lên từ bàn tay người lao động gieo trồng cần mẫn. Không gian ý thơ được mở rộng dần biên độ, đi từ hình ảnh “con rô đồng lách bùn hoa thành rạch” lên cao hơn “mũi thuyền dũi đất thành ngòi” rồi trụ lại ở hình ảnh “hoa gạo” gắn với quá trình tựu thành thì dĩ nhiên đó là một sự tịnh tiến đi lên khá độc đáo. Do vậy, đoạn đầu dường như đã khái quát được ý thơ toàn bài. Qua đó, đất nước là một quá trình tác tạo và thăng hoa của cả một dân tộc lao động không ngừng nghỉ suốt dọc dài thời gian lịch sử.
Bốn khổ thơ tiếp theo Mạc Phong Tuyền đi vào khai thác hình tượng “đất nước” ở khía cạnh gia đình, bạn bè. Ở đó có hình ảnh tần tảo vượt qua sự nghèo khổ của mẹ ta “mẹ tôi bữa cháo rau lang nước nhiều hơn cái/ Chiếc áo ba lần chồng nếp vá vai”; Ở đó có sự vất vả bươn chải của bố ta nhưng lại được nhìn qua con mắt thi vị hóa cho mềm nỗi đau nghèo nàn như vốn dĩ kia đi “cha tôi mỗi đêm canh hai vác dậm/ Vớt nhầm ánh trăng lủng lẳng giỏ đeo về”; Ở đó có anh tôi sớm phải sống trong cảnh vắng cha vắng mẹ để học hỏi rồi lớn dần theo tự nhiên và thích ứng cách lao động mà tồn tại “anh tôi dãi mũi quẹt trưa hè/ Phỏng chân lội đồng mùa cua ngồng nước bỏng”; Ở đó có chị tôi cũng sớm phải thích nghi với cuộc sống cực khổ mà tần tảo như mẹ “chị tôi khoác áo tơi chung chiêng chiều bão động/ Tất tả vén nong tằm trỗi đổ bên nhà”; Ở đó có em tôi cố gắng đeo theo cái chữ trong tuổi hồn nhiên như trái na căng tròn mở mắt ngơ ngác để may ra mà thoát được cảnh nghèo “em tôi bàn chân trần thâm buốt buổi học xa/ Tháng tám mùa na căng trái tròn mở mắt”. Và ở đó còn có bạn tôi đang tuổi ăn tuổi phá đặt trong một hình ảnh thơ sống động, long lanh kí ức tuổi hồn nhiên tinh nghịch “bạn tôi trèo vườn cau hái tổ chim chằn chặt/ Chiếc nón bung quai che úp nửa nụ cười”. Để rồi tất cả như được gom tụ lại trong một đoạn thơ rất đẹp, đẹp đến long lanh “Tôi viết về những con người lũi lầm một nắng hai sương/ Thật thà như hạt ngô rang như củ khoai vùi hôi hổi chiều vội nướng/ Tôi viết về con trâu kéo mùa ấm no tràn qua từng thửa ruộng/ Vàng cuộng rơm thơm tỏa nắng trên môi người”.
Bước dần xuống phía dưới bài, chúng tôi bắt gặp ý thơ được mở rộng ra bằng một giọng thơ tỉnh thức nhưng vẫn rất ngọt trong nhiều thi ảnh nhân cách hóa “Tôi viết về quê hương/ Mịn màng con sông trỗi lòng thương cá đớp/ Con đê còng lưng gánh hai đồi cỏ ngợp/ Đội những mầm cây tỉnh giấc hôn mặt trời”. Vẫn là lao động đấy nhưng là lao động quẫy đạp trong sự bừng thức của lí, của giác “đội những mầm cây tỉnh giấc hôn mặt trời”. Nếu ở đoạn trên là vẻ đẹp lao động gói trong những hình ảnh cá nhân lầm lũi thì đến đoạn này đã có sự khác biệt, vẻ đẹp kia hướng lên cái khái quát, cái lớn lao, cái sự sống trường tồn. Nói thế để thấy, cuộc sống qua con mắt thi nhân là vẻ đẹp vươn dậy, là cái nhìn “ngước lên cao” (Paul Nguyễn Hoàng Đức), luôn hướng lên ánh sáng để hòa hợp, sinh tồn và trưởng thành. Ý thơ mở rộng như cái nhìn cuộc sống vốn dĩ thế. Lầm lũi là đáng trân trọng nhưng lầm lũi không thể chỉ quẩn quanh, lầm lũi phải bước tới và ngẩng cao đầu lên. Đất nước là vậy, đất nước không thể chỉ loanh quanh ao làng để rồi mãi giới hạn trong một lằn ranh “tự sướng” mà quên đi sự vươn vai xứng tầm!? Lời thơ như bày tỏ một ước mơ lớn lao về đất nước: Đất nước phải được cất cánh trong một tâm thế đã sẵn sàng bung tỏa! Đất nước phải kế thừa và trỗi dậy từ trong tất cả những sự cộng hưởng văn hóa mà tựu thành.
Bởi thế, giọng thơ trầm lại như đang lắng suy kiểu tự vấn, đất nước tôi đi lên từ đâu? Đất nước tôi đâu chỉ đi lên từ ruộng đồng bờ bãi, từ sự chăm chỉ lầm lũi lam lũ của làng tôi, của gia đình bạn bè tôi, mà đất nước tôi còn phải đi lên từ trong mọi nhẽ của truyền thống: “Tôi viết về tổ quốc của tôi/ Ẩn ức, linh thiêng bốn ngàn năm có lẻ/ Xương máu tổ tiên đắp nên thành lũy/ Bể bắc trời nam trăm trứng tiên rồng...”. Lịch sử và truyền thống là bệ phóng không thể thiếu cho một đất nước. Bệ phóng đó cần phải được đặt đúng vị trí đa chiều như vốn dĩ cuộc sống “ẩn ức, linh thiêng” trong suốt dọc dài lịch sử. Không gian và thời gian được mở ra cho hình tượng đất nước tựu thành đến vô cùng “bốn ngàn năm có lẻ/ xương máu tổ tiên đắp nên thành lũy/ bể bắc trời nam trăm trứng tiên rồng…”. Sự hòa quyện huyền sử vào lịch sử, ẩn ức chêm xen vào linh thiêng đã tạo nên giá trị thiêng liêng cho tổ quốc. Một giá trị hằng hữu bất di bất dịch.
Bằng một giọng thơ tự nhiên giàu sự chiêm nghiệm, Mạc Phong Tuyền đã đem đến cho văn đàn Việt Nam một hình tượng đất nước của riêng mình như những vệt trầm tích văn hóa đan cài. Mọi nền tảng làm bệ phóng đều được anh trưng ra với một dung lượng vừa phải đủ để tạo tác, hiển lộ và thăng hoa, thêm cái nhìn nhiều chiều nên đã tránh được sự hô hào kiểu gồng gánh khiêng đất nước lên từ một phía mà hào hển vỗ về. Do vậy, hình tượng đất nước trong thơ anh vừa gần gũi thân thiện vừa thiêng liêng cao quý; vừa bình dị vừa cao sang; vừa gần vừa xa… thật đáng trân trọng!
Sài Gòn 12/02/2022
Khang Quốc Ngọc
ĐẤT NƯỚC
Tôi viết về người đàn bà chờ tôi ở rịa làng
Nơi con rô đồng lách bùn hoa thành rạch
Nơi con thuyền nan dũi đất thành ngòi
Và bầm đỏ loài hoa không nõn hạt mùa chiêm nhưng người ta đặt tên là hoa gạo...
Tôi viết về mẹ tôi bữa cháo rau lang nước nhiều hơn cái
Chiếc áo ba lần chồng nếp vá vai
Tôi viết về cha tôi mỗi đêm canh hai vác dậm
Vớt nhầm ánh trăng lủng lẳng giỏ đeo về
Tôi viết về anh tôi dãi mũi quẹt trưa hè
Phỏng chân lội đồng mùa cua ngồng nước bỏng
Tôi viết về chị tôi khoác áo tơi chung chiêng chiều bão động
Tất tả vén nong tằm trỗi đổ bên nhà
Tôi viết về em tôi bàn chân trần thâm buốt buổi học xa
Tháng tám mùa na căng trái tròn mở mắt
Tôi viết về bạn tôi trèo vườn cau hái tổ chim chằn chặt (*)
Chiếc nón bung quai che úp nửa nụ cười
Tôi viết về những con người lũi lầm một nắng hai sương
Thật thà như hạt ngô rang như củ khoai vùi hôi hổi chiều vội nướng
Tôi viết về con trâu kéo mùa ấm no tràn qua từng thửa ruộng
Vàng cuộng rơm thơm tỏa nắng trên môi người
Tôi viết về quê hương
Mịn màng con sông trỗi lòng thương cá đớp
Con đê còng lưng gánh hai đồi cỏ ngợp
Đội những mầm cây tỉnh giấc hôn mặt trời
Tôi viết về tổ quốc của tôi
Ẩn ức, linh thiêng bốn ngàn năm có lẻ
Xương máu tổ tiên đắp nên thành lũy
Bể bắc trời nam trăm trứng tiên rồng...
(Tác giả Mạc Phong Tuyền)
Ảnh minh họa: Internet
ĐỌC TIẾNG GUỐC CỦA THY NGUYÊN - KHANG QUỐC NGỌC
"TIẾNG GUỐC" HAY NỖI LÒNG MỘT NGƯỜI ĐÀN BÀ ĐƠN LẺ CỦA THY NGUYÊN
Đầu năm đọc “Tiếng guốc” của Thy Nguyên mà nghe xao xác cả cõi xuân lẫn cõi người. Mở đầu bài thơ là sự chênh lệch đến xót người “Nhà người chăn ấm đệm êm/ Nhà em tiếng guốc rách thềm đá hoa” chứng tỏ “nhà người” và “nhà em” có chi đó khác nhau xa lắm, xa lăm lắm để rồi cuối bài buông ra tâm trạng hệt một lời chiêm nghiệm mang dáng dấp của tiếng thở dài chua chát “Đời xin một chút lưa thưa/ Mà thành kinh kệ gói vừa trăm năm…”
Rõ ràng bài thơ là sự nhấn nhá của cái lặng, cái cô đơn, cô đơn đến nghẹt thở “Nhà em tiếng guốc rách thềm đá hoa”. Cái “tiếng guốc” kia phải nằm trong một không gian im ắng lắm mới có thể thành chi tiết “rách thềm đá hoa” ám ảnh đến ghê người như vậy. Tại sao không là thủng thềm đá hoa mà phải là “rách thềm đá hoa”? Là bởi ý thơ còn phảng phất vương mang hy vọng “dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng” (Nguyễn Du) chăng? Bởi thế không thể là thủng được, vì nếu là thủng thì nó đau đớn hơn rách rất nhiều, hơn nữa, “rách” cũng đau đấy nhưng còn có thể may vá lại được. Cho nên, tiếng guốc vang lên sốt ruột, sự sốt ruột trông chờ! Do vậy, “tiếng guốc” kia phải khua cho động, thật động, động đến như “rách thềm đá hoa” lên mới được. Thế nhưng, cái động khua được cái tĩnh thức dậy chăng hay lại càng làm cho cái tĩnh lùi sâu thêm vô thăm thẳm? Lời thơ nén lại, le lói chút hy vọng đồng thời cũng chìa ra một thực thể nghe đau đáu làm sao “Sương văng vào khói tháng ba/ Má đào nám chặt vẽ ra chỗ nằm...”. Cô đơn quá, cô đơn kinh khủng! Một sự tách từ cố ý hệt như phân thân đến đỉnh điểm “sương văng vào khói tháng ba” trong cái cảm thức tự thân đơn lẻ cùng cực “má đào nám chặt vẽ ra chỗ nằm…”
Nguyên nhân dẫn đến sự trông chờ đơn độc kia phải chăng là ở chỗ này: “Anh nghèo cả một lời thăm” nên nhân vật trữ tình phải dũng cảm đứng lên hóa giải mình thôi: “Ốm đau hóa những vũng đằm thanh xuân”? Giọng thơ trách cứ pha chút giận hờn chứng tỏ nhân vật trữ tình còn nặng lòng với nhân vật “anh” lắm! Tìm thấy “thanh xuân” trong “ốm đau” tật bệnh thì chắc chỉ có mình Thy Nguyên? Ý thơ được bọc trong một cái giọng điệu chua chát nhưng vẫn lấp lánh vẻ đẹp triết lí và nhân văn. Nhờ có sự thờ ơ kia, cho dù nhân vật trữ tình không muốn, thì chính cái sự thờ ơ đó đã giúp cho tâm can nhân vật trữ tình dường như được đốn ngộ. Nó như là một điều kiện phải có để con người tiến hóa trong quá trình học hỏi mà tiến lên. Cho nên, tác giả đã đẩy vấn đề lên đến tận cùng để lí giải cái tưởng rằng vô lí kia thành cái có lí. Chính cái có lí trên đã làm cho ta bớt đi cái buồn cho dù cái buồn kia quả là còn đang rất… thăm thẳm vô cùng! Bởi thế hai câu thơ kế tiếp mang màu sắc bổ trợ làm đầy hơn cho ý thơ phía trên nghe lại rất đa giọng “Ái ân thừa kiếp phù vân/ Người dưng mặc áo, ngoài sân pháo hồng”. Có hình ảnh lạ, tại sao “người dưng mặc áo”? Ơ hay, ai chả mặc áo? Thì ra, ngay ở trên đã có ý “ái ân thừa” của “kiếp phù vân” rồi. Cái lí vừa mở lời thì cái tình cũng đã chen vào lên tiếng. Để rồi nhân vật trữ tình như đang lẫn lộn ghê gớm giữa cái thực với cái ảo, hay nói cách khác, lí trí và cảm xúc đan cài quyện lại quấn lấy nhau khó mà phân biệt. Thành thử, ý thơ như được kéo cho dài ngoẵng ra, kiểu vẫn biết thế nhưng nó lại không hẳn thế “ái ân thừa kiếp phù vân/ Người dưng mặc áo, ngoài sân pháo hồng”. Nói về họ mà cũng là đang nói về ta, rồi ta đấy mà cũng là họ đấy. Đã xong mà lại như chưa xong, chưa xong mà lại như đã xong. Một tí từng trải, một tí giễu nhại, một tí hoang mang, một tí thôi đành, và một tí thương cảm… cứ thế mà hòa trộn vào nhau, đau đáu một tâm cảm để rồi chát chua mà chịu trận, mà giãi bày, mà cảm thông!
Đến đoạn cuối thì nhân vật trữ tình dường như đã thoát hẳn khỏi tâm trạng phức hợp chằng níu, mơ màng dần lui nhường chỗ cho sự tỉnh táo, ý thơ không còn cái thể cảm đa đoan tình lí đan cài mà chỉ còn lại giọng chiêm nghiệm đúc rút “Sang hèn, sắc sắc, không không/ Lông chông ngọn cỏ ngoài lòng đổ mưa/ Đời xin một chút lưa thưa/ Mà thành kinh kệ gói vừa trăm năm…”. Màu sắc thơ là màu sắc giác ngộ bừng tỉnh đã dường như phủ khắp cả đoạn kết, bởi thế nó mang dáng điệu của sự lặng yên và nhẹ nhàng hé lộ một tâm thế bản lĩnh. Cỏ cây rồi sẽ nhú lên cả thôi, sắc xanh ấy, sự sống ấy sẽ là mãi mãi, chỉ con người mới là hữu hạn. Giọng thơ chùng lại “Đời xin một chút lưa thưa/ Mà thành kinh kệ gói vừa trăm năm…”. “Lưa thưa” mà cũng phải xin ư? Thì thế hẳn, một khi đã bừng giác thì cái xin kia chỉ là sự tạo cớ để giãi bày khi tâm cảm đã nhuần hiểu mọi thứ bên ngoài đều là hư huyễn, hư huyễn đúng như lời Phật dạy. Song, cái quan trọng là ở câu kết, trổ hoa đơm quả cũng ở câu kết “Mà thành kinh kệ gói vừa trăm năm”. Chính những thứ hư huyễn kia sẽ giúp chúng ta “gói vừa trăm năm” là bởi nó sẽ “thành kinh kệ” trong lòng mình! Lòng mình bừng ngộ từ sự hư huyễn trải nghiệm đem lại. Không trải nghiệm thì làm sao đúc rút mà bừng ngộ? Chỉ cần một “chút lưa thưa” thôi đã gói được “vừa trăm năm” thì cần mong ước chi nữa? Chữ “vừa” vang lên ngay cạnh hai chữ “trăm năm” phải chăng là tiếng nói hạnh phúc cho ai “biết đủ là đủ”? Câu chữ khép lại mà dư âm còn ngân vang.
Nhìn cả bài thì thấy có đau đấy nhưng là cái đau của cõi người, lời thơ không né tránh sự thật, sự thật đưa ra như một vệt nền nâng đỡ để xúc tiến tạo ý nghĩa vượt lên. Không chấp nhận thực tại thì không thể có cơ hội lớn. Mà có lớn lên thì mới mong có hy vọng bung tỏa được. Bởi thế, vỏ bên ngoài của bài thơ là nỗi niềm cắt cứa nhưng chứa đựng bên trong là cả một tâm thức đón nhận và vượt qua. Một sự vượt thoát của sự nén ý khá đắc địa nên đọc bài thơ lên chúng ta không khỏi ngậm ngùi trước khi tâm cảm ta được sự yên lặng bao phủ. Đa giọng đa thanh quả là đắc sách.
Có thể nói, ở bài “Tiếng guốc” giọng thơ Thy Nguyên đã rất sắc sảo và độc đáo trong thể lục bát sở trường của chị. Chị nén nỗi niềm cuộc đời vào trong từng câu từng chữ. Đọc “tiếng guốc” của chị, chúng tôi có cảm giác câu chữ kia như được chị rứt ra từ thịt da mình, nỗi đau ấy hiện ra, câu nào cũng hé lộ một khía cạnh hồn cốt của thân phận. Cái buồn lặn vào trong câu chữ và cứ chực trào lên khi chúng ta đọc lục bát ấy. Tác giả quả là ấn tượng khi giãi bày nỗi niềm cho nhân vật trữ tình, mọi cung bậc sắc thái tâm trạng mong ngóng trông chờ và cô đơn như đều được gọi tên ra để rồi lần lượt xuất hiện. Do đó, dường như Thy Nguyên đã thổi được hồn mình vào trong thể thơ ấy, con chữ qua bàn tay chị đều như có sức sống, nó quẫy đạp và lên tiếng thì sự chia sẻ đẫm đặc trong bài thơ ấy là một sự hiển nhiên.
Sài Gòn 09/02/2022 - mùng 9 Nhâm Dần
Khang Quốc Ngọc
TIẾNG GUỐC
Nhà người chăn ấm đệm êm
Nhà em tiếng guốc rách thềm đá hoa
Sương văng vào khói tháng ba
Má đào nám chặt vẽ ra chỗ nằm...
Anh nghèo cả một lời thăm
Ốm đau hóa những vũng đằm thanh xuân
Ái ân thừa kiếp phù vân
Người dưng mặc áo, ngoài sân pháo hồng.
Sang hèn, sắc sắc, không không
Lông chông ngọn cỏ ngoài lòng đổ mưa
Đời xin một chút lưa thưa
Mà thành kinh kệ gói vừa trăm năm…
(Thy Nguyên)
Ảnh minh họa: Internet
ĐỌC XUÂN QUÁ LỬA CỦA HOA MAI - KHANG QUỐC NGỌC
“XUÂN QUÁ LỬA” – LỜI THÌ THẦM NỒNG NÀN ĐỘC ĐÁO CỦA TÌNH CŨ TÌNH GIÀ!
Xưa nay từng nghe “trà quá lửa”, “thịt hai lửa”, hoặc “xuân quá lứa” chứ tuyệt nhiên chưa từng nghe “xuân quá lửa”. Cách nói ấy lạ. Cái lạ gây tò mò ngay từ tựa bài thơ: “Xuân quá lửa” – một bài thơ độc đáo của tác giả Hoa Mai.
“Xuân quá lửa” dĩ nhiên là một ám thị chỉ người quá lứa lỡ thì, tuổi xuân đã vụt trôi qua, hay như tác giả từng thủ thỉ thì “em nói ra tâm tư của các chị em già đấy ạ”. Già thì hơi quá nhưng chắc chắn đối tượng nhân vật trữ tình của bài thơ là những người đứng tuổi còn khát khao yêu thương nhưng lại nghẹn ách vì tuổi tác. Nên bài thơ là cả một sự dằng dặc buồn, buồn thấm thía, buồn thấm đến từng câu từng chữ nhưng lại vẫn thấy lấp lánh khát khao tiếng yêu đi bên cạnh. Một nỗi buồn có thể cảm thông nhưng không dễ dàng chấp thuận âu cũng là sự đời của những điều tưởng như trái khoáy!
Đoạn thơ đầu tác giả vẽ khái quát không khí hoàn cảnh chung đầy tự cảm như xác tín một sự thật không lấy gì làm vui “Xuân quá lửa buông tôi vào xao xác”. Câu thơ bung ra như một hiện trạng tuổi tác không còn phù hợp với giai đoạn yêu đương nên giọng thơ đẫm đầy thảng thốt. Hàng loạt những từ ngữ phía sau xuất hiện đồng hô hiệu ứng “hết vọng tưởng trông chờ”, “chạng vạng phủ mây mờ cõi lạc”, “cô độc cả lời thơ” càng làm cho tình cảnh trớ trêu trên chệnh choạng và chới với hơn. Giọng thơ chua chát vang lên như xác nhận một thực tế đau đớn rằng cánh cửa yêu đương nơi “cõi lạc” đã đóng lại rồi, “hết vọng tưởng trông chờ” là thật rồi! Hiện tại chỉ còn duy nhất một con đường là chấp nhận cái hiện thực ấy mà thôi nên ý thơ bật ra giọng cảm thương lầm lũi “bóng lưng buồn cô độc cả lời thơ”. Sự thể ấy như là một sự quay lưng ra về trong cái thế “cô độc” buồn bã.
Bởi thế, những tưởng “xuân quá lửa” là tàn tạ đang rình rập bủa vây, là cảnh “buồn cô độc” hiện hữu bao quanh? Nhưng không, hình như đã thấy cái chữ tình trong “lời thơ người” lấp ló và hiện đang có “nguy cơ” bùng cháy trở lại. Nhân vật trữ tình rơi vào cảnh tưởng yên mà không yên “Bao ngày ráng ghim lòng vào ngục đá/ Mà giọt tình bướng bỉnh chẳng buông tha”. Tình cảnh ấy có chi đó na ná cảnh xưa trong Truyện Kiều “Lửa tâm càng giập càng nồng” (Nguyễn Du). Ý thức có vẻ yếu dần và thất thế trước sự bùng dậy của cảm xúc “giọt tình”. Phải thôi, “giọt tình” thường có tiếng nói và lí lẽ riêng. Tiếng tình đã quẫy đạp rồi thì có cố né tránh nó cũng không được. Thế thì do đâu nhân vật trữ tình phải buông ra lời thơ như có vẻ than thở và mang màu sắc “khổ lụy”: “Mà giọt tình bướng bỉnh chẳng buông tha” khó xử đến làm vậy? “Xuân người dậy lại sóng dư ba” là tiếng tình yêu đã rực tín hiệu phía người cũ kia rồi. Ý thơ nhắc đến dáng dấp “Tình cũ không rủ cũng gặp” như thành ngữ đã nói chăng? Ở đây, người cũ đã quay trở lại làm “dậy lại sóng dư ba” thì hẳn rồi, người cũ đã bật tín hiệu, con tim nhân vật trữ tình cũng đã nhận ra dấu hiệu kia nhưng còn vì điều chi đó khó nghĩ, khó nói nên giọng thơ ở đoạn hai có vẻ lưỡng lự nước đôi chăng? Trách cứ đấy mà cũng là yêu đấy. Rối rắm bắt đầu quăng chài. Thế thì xuân đâu đã quá lửa? “Xuân quá lửa” làm chi cho khổ, sao không để cho “xuân” đừng quá lửa có hơn không? Tuổi tác có thể là một vật cản trở ghê gớm cho sự quay lại của “xuân” yêu?
Đến đoạn ba thì nhân vật trữ tình đã như quay trở lại với kí ức xưa. Cái hiện tại đan xen cái đã qua. Lời thơ xác quyết một điều, tâm tình ấy là tâm tình thơ, buồn ngọt vì con tim ta ngày ấy (và có cả ngày nay nữa, đang hừng hực lửa xuân đó thôi) đã bị người chinh phục “Lời thơ người ngọt tàn nhẫn gươm đao/ Ta ngã gục từ bao giờ chẳng rõ”. Để rồi nhân vật trữ tình lại như chìm hẳn vào một trạng thái mơ hồ mà thú nhận “Ta ngã gục từ bao giờ chẳng rõ/ Phải từ xuân của một kiếp xa nào”. Lý trí đã hoàn toàn nhường chỗ cho tình cảm thật rồi. Chữ yêu đã sống dậy và thổn thức. Chữ yêu đã được mở ra vô tận thì sao tránh khỏi “ta ngã gục từ bao giờ chẳng rõ” để mơ màng ước ao “phải từ xuân từ một kiếp xa nào”? Phải, phải lắm! Phải chi chuyện “ta ngã gục” đã đến từ trước đó, “từ một kiếp xa nào” thì hay biết mấy!? Lời thơ đâu chỉ có ước, nó còn như rú lên một sự thật rằng “ta ngã gục từ bao giờ chẳng rõ” rồi kìa! Nói thế để thấy được lí trí và tình cảm đang giằng co ghê gớm. Lời thơ xác nhận nhưng sao có vẻ lại chua chát? Ta “gục ngã” trước lời thơ của “người”, bởi lời thơ ấy sắc “ngọt tàn nhẫn gươm đao”. Ngọt và gọn quá ư! Nhưng sao lại có hình ảnh “gươm đao” đi liền sau chữ “ngọt” ở đây? “Xuân quá lửa” quả là mâu thuẫn mà, rắc rối quá nhưng là sự rắc rối của tình xưa thúc giục và nồng nàn ghị níu . Ta không thể né (và cũng chả dại gì né!) nó. Thì đấy thôi, hai từ “ngã gục” xuất hiện, hợp lí và thống nhất hình tượng nên cái chất mơ hồ đã được tác giả thả ngay xuống bằng một câu thơ nghi vấn bỏ lửng cho ý thơ loãng ra “phải từ xuân của một kiếp xa nào”… là cũng muốn cho nhẹ lòng ở cái thế “gục ngã” đó thôi!
Hẳn rồi, ngọn lửa tình đã quay lại và càng ngày càng có thể bùng lên dữ dội: “Ngọn lửa tình hoàn nguyên không cần đốt”. Thực trạng tâm tư của “ta” ấy hiện như một bếp than hồng, giờ chỉ cần một cơn gió thoáng nhẹ qua là có thể thổi bùng lên ngọn lửa tình vì sự đợi chờ đã sẵn “Trầm tích như đợi gió hóa tương phùng”. Xuân lại hừng hực, xuân lại tươi mới, xuân lại nõn nà qua con mắt yêu “Xuân cứ chín theo thời gian lạnh lẽo”. Câu cuối xác nhận một sự thật “Kệ ta ngồi ngả mộng phía lao lung”. Chữ “kệ” buông ra như cố tình động viên cái “xuân quá lửa” hãy cứ tự nhiên theo tiếng gọi tình cảm con tim mặc dù có thể chỉ là “mộng”, có thể sẽ “lao lung” nhưng đó là một tình yêu đẹp cập bến tuổi già. “Thời gian” có “lạnh lẽo” cũng mặc kệ. Hốt nhiên, đó đâu phải là sự buông xuôi mặc kệ mà đó là tiếng nói thả trôi tim mình vào với miên viễn cuộc đời đang cần nhịp đập con tim hồi sinh rực lửa bởi tiếng lòng đồng điệu trong thơ tình ai kia, người đó có thể là người cũ cũng có thể chỉ là một nhân vật trữ tình ảo mộng nào đó mà thôi thì cũng vẫn là những khát khao đáng trân trọng. Có cái để an ủi tuổi già, có cái để cho cuộc đời còn có thể “ngả mộng” vẫn hơn là ngồi đó mà ủy mị và rồi cũng đến tàn úa theo thời gian thì ích chi?
Bốn đoạn của bài thơ là bốn lần chữ xuân xuất hiện. Mỗi lần xuất hiện ấy chữ xuân đều gắn với những khía cạnh ngữ nghĩa khác nhau. Song, chung quy cũng chỉ xoay quanh một sự dập dồn của ba chữ “xuân quá lửa” vẫn còn tràn đầy những yêu thương khao khát. Nó đằm dịu ẩn sâu và trỗi dậy cũng lại vô cùng đằm dịu. Lời thơ phảng phất như tiếng vọng từ một kiếp xa xôi nào đó vọng về, xa đó mà gần đó. Tiếng yêu thương tuy không ồn ào như tuổi trẻ nhưng vẫn thừa khả năng hấp dẫn bởi câu chữ ắp đầy tiếng thương yêu. Do vậy, có thể nói năng lượng yêu của bài thơ “Xuân quá lửa” là cực kì lớn, nó được tích tụ từ những trạng thái tâm lí khác nhau.
Mặt khác, sự độc đáo của bài thơ là ở chỗ tác giả sử dụng rất nhiều từ mạnh và lạ để diễn ngôn. Dòng ý nghĩa nội dung bài thơ là đi từ tự nhận thức “Xuân quá lửa buông tôi vào xao xác/ Người viễn phương hết vọng tưởng trông chờ/ Nghe chạng vạng phủ mây mờ cõi lạc/ Bóng lưng buồn cô độc cả lời thơ” đến chỗ bị cảm hóa bởi ngoại cảnh tác động, dòng chảy đó kéo theo một sự thay đổi trong tâm cảm, để rồi cuối cùng là sự bung tỏa khát vọng yêu thương vô biên “Ngọn lửa tình hoàn nguyên không cần đốt/ Trầm tích như đợi gió hóa tương phùng/ Xuân cứ chín theo thời gian lạnh lẽo/ Kệ ta ngồi ngả mộng phía lao lung”.
Bài thơ như một ngân vang thông điệp tiếng lòng khi con người đã bước vào giai đoạn “phía bên kia dốc của cuộc đời” (Nam Cao). Sự thể lạ trong một khao khát rất người, rằng bản thể tiếng yêu vẫn còn thuộc về hồn cốt con người bản thể. Thời gian qua đi chỉ càng làm cho những rung dộng tiếng lòng thêm sâu sắc mà thôi, nào đâu có thể lợt lạt? Một khi tiếng lòng chưa khua thì chớ bảo nó đã đi vào sự quên lãng! Kỷ niệm sẽ thức dậy, kí ức vẫn vẹn nguyên thì chớ nên đùa giỡn với quá khứ! Chúng ta hẳn đã nghe Bà Chúa thơ Nôm (chữ Xuân Diệu) Hồ Xuân Hương từng thốt lên đầy chiêm nghiệm đó thôi: “Chuông lòng không đánh cớ sao om?”
Sài Gòn 11/02/2022
Khang Quốc Ngọc
XUÂN QUÁ LỬA
Xuân quá lửa buông tôi vào xao xác
Người viễn phương hết vọng tưởng trông chờ
Nghe chạng vạng phủ mây mờ cõi lạc
Bóng lưng buồn cô độc cả lời thơ
Bao ngày ráng ghim lòng vào ngục đá
Mà giọt tình bướng bỉnh chẳng buông tha
Đã yên phận tới ngày thôi hoang hóa
Mà xuân người - dậy lại sóng dư ba
Nắng chợt nghẹn đánh rơi buồn lên lá
Lời thơ người ngọt tàn nhẫn gươm đao
Ta ngã gục từ bao giờ chẳng rõ
Phải từ xuân của một kiếp xa nào
Ngọn lửa tình hoàn nguyên không cần đốt
Trầm tích như đợi gió hóa tương phùng
Xuân cứ chín theo thời gian lạnh lẽo
Kệ ta ngồi ngả mộng phía lao lung
(Tác giả Hoa Mai)
Ảnh minh họa: Internet
ĐỌC MIỀN GIÓ SAY CỦA TRẦN NGUYỆT ÁNH - KHANG QUỐC NGỌC
LUNG LIÊNG CON CHỮ VÀ KHẮC KHOẢI TÂM TÌNH TRONG “MIỀN GIÓ SAY” CỦA TRẦN NGUYỆT ÁNH
Cầm tập thơ “Miền gió say” của nữ sỹ vùng Cao Nguyên đất đỏ lên đọc, ban đầu chúng tôi lại cứ tưởng chỉ là tập thơ tình đặc chủng, đến khi đọc xong thì hóa ra không phải. “Miền gió say” không chỉ là tiếng thơ của thế giới tình cảm riêng tư mang màu sắc nam nữ luyến ái mà tập thơ còn là những câu từ chăm chút về tình mẹ, về quê hương, là tiếng nói thế sự chắt lọc đan cài. Bởi thế, tuy là tập thơ mỏng nhưng lại khá dày dặn và đa dạng về ý nghĩa nội dung lẫn cách diễn ngôn. Có lẽ đây cũng là những điểm nhấn khá thú vị khi đọc tập thơ này.
Tuy thế, thơ tình vẫn là một gam màu chủ đạo cho toàn bộ tập thơ. Đấy là tiếng nói dịu dàng e ấp, giàu chất nữ tính và bộc bạch chân tình. Ba câu hỏi tu từ chia cho hai đoạn đầu trong (Tự hỏi) như là cái cớ để nhân vật trữ tình “em” giãi bày: “Một ngày kia thơ em làm quán trọ/ Anh có dừng chân nghỉ mỏi giữa đường?... Nếu ngày mai thơ em lạc cuối đường/ Anh có dẫn yêu thương về đúng chỗ?... Hương tình nồng ấp ủ có lên men?”. Cái khéo ở bài thơ đã được tác giả dồn vào đoạn bốn – đoạn kết – là “em” và thơ khó có thể tách rời. Anh yêu em thì anh cũng phải chịu thiệt thòi là anh yêu luôn thơ em chứ? Một sự “thử lòng” rất dễ thương có vẻ lấp lửng nước đôi đặt ra cho nhân vật “anh”, dẫu chỉ là sự “thử lòng” trong thơ, cũng khó lòng mà lắc đầu từ chối.
Có lúc thấy thơ Trần Nguyệt Ánh lóe lên những câu thơ táo bạo nồng nàn mạnh mẽ: “Đại ngàn vang tiếng cồng chiêng/ Vịn cong đỉnh Chư Yang Sin gọi mời” (Bên dòng sông mẹ). Có lúc lại là tiếng thủ thỉ nghe mơ hồ như tiếng lá bay qua bởi cảm thức nữ tính vụt dậy mà sợ sự tàn phai nhan sắc theo thời gian xô lệch chân chim nơi khóe mắt “Nỗi nhớ dậy thì theo xuân tràn qua phố/ Sợ mắt môi mình nở rộ chân chim” (Mật ngôn nào cho em) để rồi vịn cái cớ đó mà ý thơ cũng hồi hộp lao theo những sự phập phồng “đáng lo sợ” hơn “Em sợ xuân tàn khi vừa chớm tháng ba/ Sợ mật ngôn không còn phù sa màu mỡ/ Sợ tình yêu anh đắp bồi lại lở/ Sợ lỡ mùa dang dở kiếp phù sinh”. Sự nhạy cảm mơ hồ thì có lẽ vẫn luôn như thế, sợ này kia, âu cũng là tiếng nói thiết tha của tình yêu tha thiết. Tiếng thơ có lúc không tránh khỏi những day dứt “Hương cà phê nồng nàn thơm ngát/ Bước chân người xa mãi một mùa hoa” (Lỡ hẹn một mùa hoa). Thực tại hiện hữu với kí ức ngày xưa sao khác xa nhau quá thì làm sao mà chẳng lo? Nhưng lo lắng chỉ là lo lắng, cũng may nhân vật trữ tình còn cái giật mình để mà tự vỗ về “Tháng ba cận kề nhởn nhơ đầu ngõ/ Thoáng giật mình khi bỏ lỡ mùa hoa”.
Tập thơ chêm xen những bài giàu chất chiêm nghiệm và triết lí cuộc sống ẩn trong một giọng thơ chậm, suy tư sâu lắng “Nhặt bóng mình trên vách thời gian/ Đã in hằn xác xơ năm tháng…/ Ai dám viết ra bản thảo đời mình…/ Những vấp ngã kia không có sự bắt đầu/ Thì lấy đâu chân lí và bảo toàn định luật/ Tình yêu trong tim chẳng thể nào bất biến/ Nghịch với người này nhưng thuận với người kia…/”. Bài thơ kết thúc rồi mà những câu thơ như vẫn còn đây đó mang bóng dáng tiếng thở dài và dáng điệu sự chép miệng của được mất bâng quơ “Vách thời gian ghi kết quả cuộc đời/ Em – một vòng quay tạm thời vào ô mất lượt/ Thắng hay thua nào ai biết trước/ Chơi ván cờ tình có biết nước nào đi?” (Ván cờ tình). Triết lí nguồn cội và tâm tình cuộc sống đan xen vang lên trong một điệu thơ tự sự (Nước và đá) nghe trìu trĩu những tâm tư: “Nước bảo: Đá ơi! Một mai tôi chết đi, anh sẽ không còn buồn nữa!/ Đá trả lời: Tại sao?/ Không có nước, anh sẽ trở thành non cao/ Sẽ hứng trọn ánh nắng của mặt trời khi thức giấc!/ Không, anh ơi! Đá trả lời/ Không có anh tôi bị vùi trong đất/ Vùi mình trong rêu mốc/ Và chịu sự giẫm đạp của loài người!/ Trừng phạt bởi sự bỏng rát của mặt trời chiếu rọi!/ Nước thầm thì: Nhưng tôi sẽ về nguồn cội/ Còn anh mãi nơi này buồn tủi không?/ Chúng ta gặp nhau duy nhất một lần trong hành trình cập bến/ Tôi sẽ hóa thân thành viên sỏi/ Lăn theo dòng anh chảy đến cội nguồn”.
Lắm lúc vút lên những câu thơ chân thành độ lượng đẫm đầy sự sẻ chia trong một giọng điệu tự tin từng trải “Trái tim em sẽ không một lần rách/ Vì em có thứ người ta cần để gửi gắm tin yêu!” (Viết cho người đến sau). Nhưng cũng có lúc, câu thơ lọt vào sự chới với đến hẫng hụt “Suốt một đời em ấp ủ mê say/ Để một ngày anh uống nhầm đôi mắt khác” (Không đủ bản lĩnh).
Giọng thơ ấy đôi lúc lại ngân lên giai điệu tiếng thơ chia sẻ đến tận cùng của sự trân trọng đối với những nghịch cảnh ngang trái. Hoàn cảnh ấy đã đâm lao “Chị vá víu đời mình vào những cơn say/ Để quên hết những lỗi lầm ngày cũ” thì phải theo lao “Vẫn biết rằng chị là của người ta/ Của những người đàn ông dừng chân quán trà chớp nhoáng/ Của những ma men trong cơn say chập choạng/ Của những gã trai thèm phở chán cơm nhà”. Song, ở đó vẫn thấy lấp lánh tình thương yêu đùm bọc cao quý “Nuôi đàn con thơ của những kiếp đời lầm lỡ/ Nhen nhóm yêu thương từ kiếp bẽ bàng”. Đó là những đốm sáng từ tâm thiện lành vô cùng trân quý. Giọng thơ da diết và đau đáu vì con người cùng khổ mà nâng niu.
Lẽ dĩ nhiên, thơ của nữ sỹ vùng Cao Nguyên đất đỏ thì phải có thơ viết về vùng đất ấy, dù nhiều dù ít. Ở đây, chúng tôi cũng đã thấy một Tây Nguyên trong sáng êm đềm tỏa ra từ một tiếng thơ dịu ngọt đẫm chất phồn thực “Trăng non nhú đầu chóp núi/ Ngực trăng nõn mởn dậy thì/ Nhà Rông bếp hồng than củi/ Chị dệt thổ cẩm đêm khuya…/ Dệt quê hương vào gấm lụa/ Nếp nhà sàn mãi bình yên” (Dệt quê hương). Rồi, dù muốn dù không, thì cái thực trạng rừng núi đang bị bàn tay con người tàn phá tan hoang kia không thể không len vài bước chân hoang lạnh vào thơ Trần Nguyệt Ánh, nó là một điều day dứt trong thơ chị “Bóng đen đè trên ngực núi/ Đè trên đồi cao/ Đè từng dòng sông con suối”.
Tiếng thơ ngộp thở, tiếng thơ vùng vẫy “tự vượt thoát chính mình/ Trong giấc mơ tôi vùng vẫy”. Bởi “máu rừng loang lổ…/ Tiếng cưa tiếng chặt khoét đục đại ngàn…”. Bởi “một tiếng nổ kinh hoàng/ Chú nai con lạc mẹ”…(Khi bóng tối bủa vậy). Nên “Chim bay mãi không về bản/ Một đời róc rách điêu linh…/ Kơ tia rủ nhau đi trốn/ Rừng kêu thảm thiết: Than ôi!” (Lời tự tình của suối). Không ngẫu nhiên mà lời tự tình của suối mang âm hưởng đau xót thê lương như thế nếu rừng đại ngàn không bị tàn phá tan hoang! Rừng khóc hay người cũng đang khóc than cho rừng, cho mình, lời thơ nghèn nghẹn “Suối tóc chiều nay mưa bay/ Hay lòng em đang đau nhói?/ Mây mù về giăng ngập lối/ Tự tình những nỗi đa đoan” (Lời tự tình của suối).
Có những câu thơ rất lạ trong một tứ thơ cũng rất lạ, đọc lên thấy xao xuyến một điều chi đó cũng rất lạ, để rồi ngậm ngùi ừ à trong một cái sự thể oái oăm “Tự khắc chân dung mình/ Bằng những đường chạm trổ/ Những hộp màu loang lổ/ Hòa mực vẽ không thành/ Tự vẽ chân dung mình trên tờ giấy trắng tinh/ Mắt môi này lại ra hình hài khác!/ Viết những câu thơ màu tro bạc/ Hát dỗ mình lại tạc đúng chân dung!”. Chúng tôi đồ rằng, những dấu chấm than kia có thể sẽ làm cho chúng ta giật mình. Một sự giật mình nhìn ngẫm bởi cái lòng vòng oái oăm của cuộc đời kia đâu chỉ là của riêng nữ sỹ, nó tràn ra trang giấy, nó nhẩy loi choi và như đang chọc ngoáy tất thảy chúng ta đó thôi!
Chúng tôi lại thấy cái không khí dậy mùi Tây Nguyên “Tháng ba mùa con ong đi hút mật/ Mùa con voi xuống sông hút nước” (Nhạc Văn Thắng) cứ như đang tiếp tục lửng lơ lãng mạn treo theo câu hát kia trong thơ Trần Nguyệt Ánh. Ở đó, có sự dập dình hòa nhịp của tình yêu và lòng thủy chung dịu mát: “Tháng ba Tây Nguyên gọi về miền nhớ/ Đợi anh về thắp lửa một mùa hoa” (Tháng ba Tây Nguyên).
Ngoài ra, tập thơ còn là sự cảm nhận về mẹ rất ngọt ngào và xúc động. Mẹ luôn luôn quên mình, hy sinh mình để dồn tất cả cho con, vì con. Nỗi lòng ấy của người mẹ được đặt trong những câu thơ giản dị nhưng giàu thi ảnh “Mẹ bán rét ngọt chiều đông/ Để mua nắng ấm cho hồng giấc con/ Ngoài đồng giá buốt mưa trơn/ Bàn chân mẹ bấm nhẵn mòn bờ đê”. Xuân về làm lòng mẹ ngổn ngang hơn vì bao lo toan phải chăm chút, phải tính toán. Mẹ ta vẫn đấy thôi, bình thường mà lồng lộng cao sang “Tết về lòng mẹ ngổn ngang/ Liệu cơm gắp mắm cho bằng người ta” (Mùa xuân của mẹ).
Nữ sỹ Xuân Quỳnh từng viết: “Mẹ đâu chỉ của riêng anh/ Mẹ là mẹ của chúng mình đấy thôi”. Người mẹ chồng trong thơ Trần Nguyệt Ánh là một người mẹ không chỉ giàu lòng yêu thương mà còn là một người mẹ giàu lòng trung thực và công tâm “Người cho niềm tin và yêu thương đến vậy/ Sẵn sàng bênh em khi anh nhỡ lời”, bởi thế cho nên “hình bóng mẹ cứ êm đềm cổ tích” mãi trong lòng nữ sỹ (và có thể cả trong lòng chúng ta nữa) chăng? (Tình mẹ cổ tích).
Tác giả đôi lúc còn như dùng cách tự cảm mà cố tình tách mình dịch về phía khách quan để được nhìn ra bản ngã “Sáng nay nhìn qua ô cửa thiên thần/ Bất chợt nhận ra mình, người đàn bà đã cũ/ Quay vào lật từng bài thơ tình dang dở/ Chẳng biết mình viết cho ai? (Ô cửa thiên thần). Đôi khi cách nhìn là lạ có phần nghễnh ngãng ấy lại đem đến nhiều điều thú vị cho thơ ca. Viết cho mình hay viết cho người, ranh giới ấy có khi khó tách bạch nhưng chung quy thì cũng vì con người mà dụng tâm, dụng chữ, âu cũng là điều đáng trân trọng trong hành trình khám phá bản thể.
Câu thơ khắc họa sự khắc khoải thủy chung đến thảng thốt, đọc lên cắt cứa mà tràn ngập nâng niu “Em chờ anh, nhìn trời đếm hết những vì sao/ Từ lúc bình minh lên đến khi hoàng hôn khép mắt/ Chờ từ mùa trăng đầy rồi đến mùa trăng khuyết/ Sao anh mãi không về?”. Chờ đợi là thế, mong ngóng là thế nhưng vẫn cứ thỏ thẻ nhẫn nhịn đến vô cùng “Khô cháy mình, em như lá vàng rơi bậc cửa/ Đón bước anh về, xin đừng giẫm vỡ tim em!” (Đợi). Điều ấy đáng thương hay đáng trọng? Có thể cả hai, bởi sự hòa trộn cảm thức ấy sẽ làm trỗi dậy một niềm thương cảm đến nao lòng! Cho nên, ở nhân vật trữ tình “em” trong thơ Trần Nguyệt Ánh luôn luôn tích trữ một nguồn năng lượng tin yêu mãnh liệt, một sức chờ đáng nể “Em không gục ngã, giữa dòng đời vạn biến/ Nên em vẫn tìm dù biết không anh” (Ảo ảnh). Sức chờ ấy nếu không từ nguồn yêu thương tạo ra thì từ đâu? Yêu thương quá! Trân trọng quá!
Có thể nói thơ Trần Nguyệt Ánh trong “Miền gió say” rất giàu thi ảnh “Những hạt đời em cô thành nước mắt/ Lăn vào anh để tự vỡ chính mình” (Tự vỡ), “Dệt quê hương vào gấm lụa” (Dệt quê hương), “Mẹ bán rét ngọt chiều đông/ Để mua nắng ấm cho hồng giấc con” (Mùa xuân của mẹ), và mang sức nặng cả về tình, về lí. Có lẽ thế nên tác giả ít chú trọng đến sự nhào lộn và bay bướm của câu chữ. Câu chữ của chị rất thật, thật đến độ rưng rưng. Cái tình cái lí hòa với cảm xúc tương đối chân thật ấy lắm khi lại tạo ra được sự thăng hoa ngôn ngữ đến không ngờ, nên thơ chị có sức cuốn hút của sự êm đềm nhẹ nhàng và đẫm đầy chất nữ tính. Tác giả rút tâm cảm thi ca bằng kiểu nhào nặn con chữ với cuộc đời, do vậy thơ Trần Nguyệt Ánh thường có những câu, những đoạn ám ảnh về cuộc người. Tiếng nói tâm tình ấy cứ dần phơi lộ ra, bao nhiêu cái được lẫn cái chưa được, nhiều mặt ngược chiều mâu thuẫn hầu như đều nằm chung giường chữ nghĩa của chị, câu chữ ấy có lúc đạt đến độ ám tượng thì kể cũng là một sự thành công nơi con chữ, cái lạ ấy lại chẳng đáng cho chúng ta trân trọng sao?
Đăng ký:
Nhận xét (Atom)
BÀI MỚI ĐẮNG
Truyện ngắn: BÊN CÁNH GÀ CHÁNH ĐIỆN _ NGUYỄN HẢI ĐĂNG
Bên cánh gà chánh điện phần 1 BÊN CÁNH GÀ CHÁNH ĐIỆN Xe dừng lại với tiếng xột xoạt trên mặt đường, như bao chuyến xe đã ghé qua từ thuở ...
-
Chuyện của chị Linh giò chả (Truyện ngắn Đặng Xuân Xuyến) * Hôm trước, lâu rồi, chả hiểu duyên cớ gì, chị Linh giò chả tự dưng “bắt ...
-
NHỮNG NGƯỜI PHỤ NỮ Tôi lên Cà Mau, hè này coi thi học sinh t.h.p.t tốt nghiệp. Làm giáo viên thì phải coi thi làm nhiệm vụ bắt ...




