CÁI TRỐNG BỎI
Bọn trẻ bây giờ sướng thật, đứa nào cũng có rất nhiều đồ chơi. Cả trẻ ở nông thôn cũng vậy. Ngày xưa trẻ con ở nhà quê như tôi, đồ chơi có gì đâu. Quay đi mấy cái vỏ vạng. Quay lại, lại mấy cái vỏ sò. Cả năm may lắm mới được một hay hai lần, mẹ đi chợ mua cho mấy con tò he, nặn bằng bột gạo, nhuộm xanh, nhuộm đỏ. Để chơi mãi, đến lúc bột thiu mềm nhũn ra mới dám đem ăn.
Ấy vậy mà rồi, tôi còn nhớ có lần mẹ mua cho tôi cái trống làm bằng giấy. Lúc đầu tôi chưa biết là cái gì. Mẹ tôi bảo: “Đây là cái trống bỏi”. Mẹ cầm đuôi trống lăn đi, lăn lại trên hai đầu ngón tay. Thế là những tiếng tong… tong…trong veo, rộn rã vang lên, khiến tôi mê tít. Tôi cầm cái trống ù té chạy đi khoe lũ bạn hàng xóm.
Trống bỏi được làm bằng nứa, hoặc tre gai (còn gọi là tre hoá). Thanh tre chẻ mỏng hơn một ly, bản rộng độ ba bốn phân, dài từ 25 đến 30 phân, cuộn lại thành một cái vòng tròn. Lúc bấy giờ chưa có keo dán. Người ta gim hai đầu tre bằng đinh gim. Đó chính là cái tang trống. Cái nhỏ bằng miệng chén. Cái to bằng miệng bát con.
Cái đuôi trống, vừa là tay cầm, vừa là cái xương sống nằm giữa vòng tròn tang trống, cũng làm bằng tre vót tròn, hay lõi cây đay, nhỏ bằng ngón tay út, dài khoảng 14 – 17 phân. Khoét hai lỗ tròn đối xứng nhau ở tang trống, tra đuôi trống vào. Tra đuôi xong, cái trống bỏi đã hình thành, trông như chiếc kính lúp của các cụ già dùng để đọc sách vậy.
Ngày xưa chưa có vải nilong, người ta bịt trống bằng một loại giấy, được làm từ vỏ cây dó, vừa dai, vừa mềm. Giấy nhuộm đủ các mầu; xanh đỏ tím vàng…Nhưng trước khi bịt trống, người ta đã dùi một lỗ ở bên trái, mặt trước tang trống, và buộc vào đó một đoạn dây gai. Đoạn dây chỉ dài đến giữa mặt trống. Rồi buộc một hạt đậu đỏ (to hơn hạt đậu đen một chút), đã được dùi thủng lỗ vào đầu dây. Mặt sau tang trống cũng dùi lỗ, nhưng ở bên phải, đối xứng theo chiều ngang của mặt trống và cũng buộc một hạt đậu như ở mặt trước. Rồi bịt trống. Thế là chiếc trống đã làm xong.
Có thể nói, về ý nghĩa và triết luận sâu xa của cái trò chơi này, đều nằm cả ở hai hạt đậu đó. Vì tất cả các loại trống, từ cái cực lớn như ở đền Kiếp Bạc, đến cả 1.000 cái được sản xuất cho Lễ hội 1.000 năm Kinh đô Thăng Long – Hà Nội, và cả cái trống “của làng” đã từng gửi ở nhà Thị Mầu, hay cái trống con bé tẹo, không bằng cái dành tích, của nghệ nhân ca trù Nguyễn Văn Mùi cũng vậy. Để trống tấu lên được những âm thanh tùng…tùng…cắc…cắc…, hay những tiếng “chát”, tiếng “tom”, vừa tưng bừng, náo nức, vừa trầm lắng, lay động lòng người như tiếng đàn của Thuý Kiều, khi nàng chiều lòng Kim Trọng mà gẩy: “Tiếng khoan như gió thoảng ngoài/ Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa”, thì người sử dụng trống cũng đều phải dùng dùi gõ vào mặt, vào tang trống âm thanh mới phát ra được.
Nhưng chỉ riêng có “anh trống bỏi” là không cần phải dùi. Người chơi chỉ cầm cái đuôi trống nhẹ nhàng lăn đi, lăn lại trên hai đầu ngón tay. Thế là hai hạt đậu đỏ lập tức vùng lên, tới tấp đập vào cả hai mặt trống, gọi dậy hàng loạt những tiếng tong…tong…rộn rã, trong veo tuôn trào ra như vàng gieo, ngọc rắc khắp vùng…
Người ta bảo đó là trò chơi: “Trống bỏi vật mình”.
Rồi cả cái tên gọi là ‘Trống”, xem ra cổ nhân xưa cũng thật giầu tư duy hài hước. Một cái vật kín mít, kín như bưng cả trên, dưới và chung quanh mà lại gọi là “trống”? Nhưng các cụ lại rất có lý. Vì khi tiếng trống tấu lên, âm thanh chuyển động, thì cư dân ở cả một vùng rộng lớn, ai ai cũng biết đó là tiếng trống đêm hội hát chèo. Trống đánh cờ, kéo co, bơi chải, đánh vật, chọi gà. Hay trống điếm canh. Trống vỡ đê, cháy nhà, đuổi giặc, bắt cướp…
Còn cái trống bé nhỏ nhất trong làng trống, vì sao lại gọi là “trống bỏi”? Tôi đi tìm lời giải đáp. Từ điển tiếng Việt lờ đi. Nhưng máy tính đã giải đáp: “Các bé trai xưa nay vẫn thế, mải chơi thường bị kiến vàng hay các loài côn trùng khác đốt vào chỗ kín, khiến “con cu bé tẹo” bị sưng ngứa. Các cụ gọi là bệnh “Tầm bỏi”. Thường chữa mẹo: lấy cọng rơm đo chiều dài con cu, rồi gấp sợi rơm làm 7 đoạn (tương đương 7 vía nam). Rồi chặt sợi rơm bệnh sẽ khỏi. “Bỏi” là âm cổ, có nghĩa là bé nhỏ”.
Trống bỏi chỉ là một thứ đồ chơi cho con trẻ. Nhưng cái triết luận “Trống bỏi vật mình” thì không còn là một thứ đồ chơi nhỏ bé nữa. Mà đó chính là nụ cười trào lộng của xã hội dành cho những kẻ dại khờ, “Đã già rồi mà còn thích chơi trống bỏi”, để rồi “Gậy ông lại đập lưng ông”!...
Thời xưa, phong kiến đế quốc, còn chế độ “đa thê”. Các “Lão gia”, vị nào có chút “máu mặt” cũng thích năm thê bẩy thiếp. “Sông bao nhiêu nước cho vừa/ Trai bao nhiêu vợ cũng chưa bằng lòng”. Làng tôi ngày ấy có ông tên là Chúc, vừa làm Lý trưởng được vài năm, ông ta đã cưới vợ Hai. Bà Cả ghen lồng ghen lộn, nhưng rồi cũng phải bằng lòng. Rồi khi thôi Lý trưởng, làm Phó tổng, ông Chúc lại cưới vợ Ba. Và khi lên làm Chánh tổng, được phong “Bá hộ”. Cả làng, cả tổng ai cũng gọi là “cụ Bá” rồi, và râu tóc cụ đã bạc phơ rồi, nhưng cụ vẫn thích chơi trống bỏi. Cụ Bá cưới bà, à không “cô”! Cụ Bá cưới cô Tư. Tuổi cô Tư chỉ xấp xỉ tuổi cô Út con bà Cả!
“Một chum hai gáo múc chen…”. Hai gáo mà đã va vào nhau rồi. Chứ một chum những bốn gáo thì… Đến người anh hùng, hào kiệt như vua Gia Long, mà cũng có lúc đã phải kêu lên rằng: “Nhiều bữa bãi triều, ta thực không muốn về hậu cung nữa. Vì các bà ấy xúm đến kiện cáo, nói xấu nhau dữ quá!”.
Cụ Bá quê tôi cũng vậy. Khi cụ cưới bà Ba, rồi cưới cô Tư, thì tuổi tác của bà Cả và bà Hai, kẻ nhiều người ít, họ cũng bị xếp vào hàng “lão giả” rồi. Và cái khoản kia của họ, nếu nói theo kiểu bạo miệng như thanh niên bây giờ, thì đã…”khô roong” rồi. Cho nên nhu cầu về chuyện gối chăn của họ, tuy cũng vẫn còn đấy, nhưng đã rất nhạt nhẽo, hững hờ rồi, chẳng đáng kể gì. Nhưng còn bà Ba và cô Tư? Nhất là cô Tư, tuổi xuân đang phơi phới như cờ gặp gió. Nhu cầu của cô… Nếu cái nhu cầu ấy mà cũng chồng lên được, như người ta xếp gạch để chuẩn bị xây nhà, thì đống gạch của cô Tư phải chạm đến chín tầng trời! Nhưng khả năng cung ứng của cụ Bá thì càng ngày càng tồi tệ, rệu rã, èo uột. Có thời kỳ cả tháng cụ cũng không dám bén mảng đến giường cô Tư, khiến cô mặt nặng mày nhẹ.
Nhưng rồi việc gì mà chẳng vậy. Tiệm tiến mãi rồi cũng có ngày phải bộc phát. Đó là vào một đêm, cũng như bao đêm khác, cô Tư và thằng Nặc phải thức khuya để xay lúa giã gạo.
Ngày xưa ở nhà quê không có điện, việc xay xát thóc gạo phải làm thủ công bằng hai dụng cụ là cối xay và cối giã. Cối xay tròn, có hai thớt trên và dưới. Mặt tiếp xúc giữa hai thớt đóng nhiều dăm gỗ. Đó chính là hai “hàm răng” của cối. Cối làm bằng đất sét, gỗ và tre. Nhưng phải là thợ chuyên nghề (phó cối) mới làm được. Khi xay, người ta tra tràng xay vào tai cối, cầm hai tay tràng vừa kéo lại, vừa đẩy ra, khiến thớt trên (đã đổ đầy thóc) quay tròn chung quanh trục cối, và hai hàm răng cối xiết vào nhau, phát ra những tiếng ù…ù… như gió lướt trong vườn cây, làm thóc tróc hết vỏ trấu thành gạo lức, rồi cả gạo và trấu cùng chẩy theo các kẽ dăm xuống cái nia hấng dưới gầm cối. Rồi sàng, loại bỏ trấu, chỉ còn gạo để giã.
Cối giã, thợ đục từ đá nguyên khối, to và sâu hơn chiếc thúng cái, chôn xuống đất, nửa nổi nửa chìm. Cần cối là một khúc gỗ đường kính khoảng 25 phân, dài hơn 2 mét. Đầu cần lắp cái chày, đầu chày bịt sắt. Phía cuối, khoảng 1/3 chiều dài cần có 2 cái chốt để đặt cần lên bệ đỡ. Người giã đứng lên bệ, dận chân lên đuôi cần. Cần cối giương cao lên. Buông chân, cần hạ xuống, chày giã thình…thịch… vào cối gạo.
Các dụng cụ thủ công này, từ ngày nông thôn có điện, có máy xay xát, người ta đã loại bỏ, chỉ các nhà Bảo tàng mới còn lưu giữ.
Việc xay lúa giã gạo của cô Tư và thằng Nặc đang bận rộn, thì cái đèn treo trên vách liếp bỗng nhiên lụi tắt. Chẳng biết có phải vì hết dầu không? Hay là có con thiêu thân bay vào ngọn lửa? Trời tối mờ mờ, chẳng nhìn rõ cái gì với cái gì. Mà đêm càng khuya thì trời càng tối, và nhất là càng vắng vẻ, tĩnh mịch. Rồi chẳng biết có phải vì đèn tắt, hay còn vì cả cái tĩnh mịch của đêm khuya mà cô Tư phải nghỉ sàng, để rảnh tay làm việc khác?...
Còn thằng Nặc? Tuy cũng có thể nói là nó vẫn đang giã đấy. Nhưng bây giờ nó “giã” cái khác và giã theo kiểu khác. Hay nói cho thật đúng là nó đang ra sức giúp cho cô Tư, hạ thấp cái “đống gạch” của cô xuống, để “gạch” khỏi chạm vào chín tầng trời!...
Nhưng thật không ngờ, giữa lúc cả hai tấm thân và cả hai mảnh hồn người còn đang mải mê, đang cuống quýt ở chốn bồng lai tiên cảnh nào, thì bầu đêm bỗng vỡ toang ra, và một vừng dương quang chói lọi bỗng bừng lên. Mọi vật đều phơi bày tỏ rõ như giữa thanh thiên bạch nhật. Bà Cả cầm chiếc đèn ba pin mọi khi cụ Bá vẫn dùng để đi tuần. Một tay bà túm áo đẩy cụ Bá bước dúi, bước dụi vào trong nhà và rít lên qua kẽ răng: “Đấy! Mở to mắt ra mà nhìn! Của quý của nhà ông đấy! Đẹp mặt nhỉ?”.
Cụ Bá sững sờ nhìn. Cụ chỉ muốn vung tay lên, đập cho vỡ cái mặt quân khồn nạn này. Nhưng không có chiếc ba toong. Vừa nấy, bị bà Cả lôi đi, cụ không kịp lấy. Cho nên cụ chỉ cay đắng rít lên: “Mẹ cha mày! Cái thằng con nhà Nặc! Đồ chó! Cả hang cả ổ nhà mày rồi sẽ chết với ông! Đồ ăn cháo đá bát!”.
Chẳng biết từ lúc nào thằng Nặc đã kịp vơ cái quần đùi. Mình trần trùng trục. Nó run như cấy sấy, vừa đập đầu xuống đất bình…bịch…vừa rối rít lậy van cụ Bá như tế sao: “Con lậy cụ! Xin cụ tha cho con! Con biết thân biết phận là kẻ tôi đòi, nhưng cô…Tại cô chứ không phải tại con. Xin cụ tha cho con!”. Ngay bên cạnh đó, cô Tư áo quần xộc xệch, chỗ kín chỗ hở, úp mặt vào cái mẹt, đang tức tưởi khóc.
Bà Cả bỏ đi lên trên nhà. Cụ Bá cũng lững thững đi theo, vừa đi cụ vừa lắng tai nghe tiếng cô Tư Khóc. Ánh đèn tắt. Bầu đêm lại tối mờ mờ và tĩnh lặng như chưa hề có chuyện gì vừa xẩy ra. Nhưng trong lòng cả bồn con người ấy thì giông tố vẫn đang nổi lên!...
Nghề làm trống bỏi ở ta hình như đã thất truyền từ lâu rồi. Vì có cầu thì mới có cung. Bọn trẻ bây giờ có rất nhiều đồ chơi được làm bằng sắt, bằng nhựa. Chiếc ô tô hay tầu hoả, thậm chí cả máy bay chạy bằng pin, vừa phóng đi vừa thét còi inh ỏi. Rồi “Ông Siêu nhân”, “Người ngoài hành tinh” giương súng bóp cò, tiếng nổ râm ran, lửa xanh lửa đỏ phụt ra ngoài đầu súng. Nhưng hấp dẫn nhất vẫn là trò chơi điện tử. Đến cả người lớn cũng mê, suốt ngày chúi mũi vào chiếc máy chỉ nhỏ bằng bao diêm mà vẫn không chán, chứ nói gì đến bọn trẻ. Cho nên, bây giờ nếu hỏi bọn trẻ trống bỏi là gì? Thì chắc cả trăm đứa đều lắc đầu chẳng biết là gì.
Bài này, tôi viết từ năm 2014, khi đưa lên trang mạng của nhà thơ Trần Nhương, chẳng biết ông kiếm được ở đâu cái trống bỏi rất đẹp, chụp ảnh rồi đính kèm vào bài, làm cho bài viết bắt mắt hẳn lên. Xin cảm ơn nhà thơ. Và cái trống bỏi đó đã giúp tôi hiểu rằng cái nghề làm trống bỏi ở nước ta chưa đến nỗi hoàn toàn bị thất truyền. Nó vẫn còn và đang sống thoi thóp ở đâu đó.
Tuy thế, nhưng cái trò “Thích chơi trống bỏi” của các bậc “Lão gia”, các nhà “Chức sắc” thì vẫn được bảo tồn nguyên vẹn. Các sếp to, sếp nhỏ, tuổi càng nhiều thì các vị ấy càng thích các nàng “bồ nhí” mắt xanh. mỏ đỏ, chân dài. Bồ càng nhí, càng xinh thì biệt thự sếp xây cho bồ càng to, càng đẹp. Như hai ngôi biệt thự sếp Dương Chí Dũng, nguyên Chủ tịch Tổng công ty Hàng hải Việt Nam (Vinalimes), trước khi bị toà kết án tử hình, đã xây cho hai bồ của sếp ở giữa Thủ đô Hà Nội đấy. Có phải là vừa to vừa đẹp không?./.
TP Uông Bí, ngày 27/7/2014
|
|
thư từ bài vở xin gửi về : hothanhngancm@gmail.com HỒ THANH NGÂN Hội viên hội văn học nghệ thuật Cà Mau Hội viên hội văn học nghệ thuật Phú Yên Hiện sống và viết tại Cà Mau Tác phẩm đã xuất bản : Sông Đốc Ngày Nắng Muộn - Nxb Thanh Niên (2016) Phương Nam Lộng gió - Nxb Hội Nhà Văn (2018) Trường Ca Nhớ Phú Yên - Nxb Hội Nhà Văn (2019 ) Chiều Ở Phía Ngược Gió - Nxb Hội Nhà Văn (2020)
Thứ Ba, 2 tháng 7, 2019
CÁI TRỐNG BỎI - TẠ HỮU ĐỈNH (QUÃNG NINH )
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
BÀI MỚI ĐẮNG
Truyện ngắn: BÊN CÁNH GÀ CHÁNH ĐIỆN _ NGUYỄN HẢI ĐĂNG
Bên cánh gà chánh điện phần 1 BÊN CÁNH GÀ CHÁNH ĐIỆN Xe dừng lại với tiếng xột xoạt trên mặt đường, như bao chuyến xe đã ghé qua từ thuở ...
-
Chuyện của chị Linh giò chả (Truyện ngắn Đặng Xuân Xuyến) * Hôm trước, lâu rồi, chả hiểu duyên cớ gì, chị Linh giò chả tự dưng “bắt ...
-
NHỮNG NGƯỜI PHỤ NỮ Tôi lên Cà Mau, hè này coi thi học sinh t.h.p.t tốt nghiệp. Làm giáo viên thì phải coi thi làm nhiệm vụ bắt ...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét