Chủ Nhật, 11 tháng 5, 2014

NGƯỜI TRÍ THỨC LÀ GÌ TRONG THỜI ĐẠI TIẾN BỘ?

Người trí thức là gì trong thời đại tiến bộ ?
      
              Nguyễn Hoàng Đức
 

Người trí thức là ai? Chúng ta hãy định nghĩa một cách giản dị nhất: đó là người có học, có chữ. Dứt khoát rằng không có người trí thức mù chữ, không biết đọc, không biết viết.

Nhưng khái niệm sơ khởi đó làm cho rất nhiều người trong chúng ta yên tâm, đó là sau vài năm xóa nạn mù chữ đầu thế kỷ 20, hơn 90% dân số mù chữ ở Việt Nam, nhờ bình dân học vụ đã trở thành 90% biết chữ. Vậy thì họ đã là những người trí thức chưa? Ít ra chúng ta cũng phải công bằng trả lời: họ đã có nhiều chất trí thức hơn cái thời mù chữ.

Vậy thì người ta phải học đến độ nào đó, chẳng hạn như vượt qua cấp hai, hay cấp ba mới có thể thành người trí thức?

Nhưng than ôi, ngay cả những tiến sĩ, giáo sư hằng hà sa số kia, liệu đã vượt ngưỡng để trở thành người trí thức? Đây không phải câu hỏi hài hước hay ám thị kiểu văn học, mà là câu hỏi đi trực tiếp vào thước đo chuẩn để nhìn nhận một người có phải trí thức không?

Thử nhìn những kẻ đèn sách ngày xưa. Kìa có người ba năm đóng cửa đọc sách uyên bác trùm thiên hạ, nổi danh như sấm ngang trời về học rộng tài cao, ba năm liền ông nằm đọc sách, còn gối đầu lên một chiếc gối tròn, để nếu buồn ngủ đầu đập xuống phản thì tỉnh lại liền. Trời ơi, mới có ba năm đọc sách mà đã nhằm nhò ư?! Mà đọc sách có thể nằm được, thì có bao nhiêu phần trăm nghiêm túc, hay là chỉ đọc các loại sách bình tán, bình hươu – tán vượn, để đến nỗi, suốt trong cả lịch sử đằng đẵng nghìn năm văn hiến, Trung Quốc một nước đông dân nhất thế giới không sản sinh ra nổi một người có khả năng viết phê bình. Nếu có dăm mống hay mười mống, thì đó chỉ là thứ “bình” – vô thưởng vô phạt mà thôi. Ngay cả Kim Thánh Thán, người đời vẫn chỉ coi là lời bình, mà không phải phê bình. Tức là không có phán đoán. Triết gia Kant nói rằng: nếu học mà không có khả năng phán đoán thì vô dụng. Còn người Việt gọi đó là “học toi cơm”.

Hãy xét kỹ, những thứ nằm đọc sách vài năm đã lừng danh thiên hạ của người Tàu, chủ yếu xoay quanh bộ Tứ thư – Ngũ kinh, cứ coi như chín quyển, nếu người ta đọc cách chú mục thì hết chín tháng, còn người có khả năng đọc thì hết ba tháng… Cái học lấy thuộc làu làu làm đích. Dẫn đến thứ học hành mà nhà phê bình Hoài Thanh gọi là học hành cử tử, học để lo lều chõng đi thi kiểu thuộc lòng, rút cục suốt ngày bẻm mém đọc vài câu đối hay xếp vần mấy câu thơ vụn vặt, mà Hoài Thanh gọi là: thứ học chỉ đúc ra hàng vạn bài thơ dở.

Chúng ta vẫn đang bàn theo lối đi vòng ngoài. Thực ra các trí thức tiền bối hiện đại của Trung Quốc như Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, Tôn Trung Sơn, Lỗ Tấn… đã tạo lên một định nghĩa mới cho người trí thức Trung Quốc, đó là: Chỉ là người Trí Thức nếu là người mang tâm cảm tiến bộ của thời đại mới.

Đây là một định nghĩa rất minh bạch và mãnh liệt. Theo đó các loại hủ nho lọ mọ xếp chữ suốt ngày, nào thơ nào phú, sách chất từng bồ từng nong, thì cũng chỉ là thứ ngăn kéo cũ, sao có thể xứng đáng là người trí thức?!

Trí thức là người có học hơn người. Có học vấn tức người ta không chỉ nhìn sự việc bằng trực giác mà người ta nghiền ngẫm sự việc theo những nguyên lý như triết gia Aristote nói: “Càng học ít càng buồn/ Dù uống nước trong chẳng thấy được nguồn” (NHĐ dịch từ Bách khoa Compton’s). Người Trung Quốc cũng nói “Nhân bất học bất tri lý” – tức là người không có học thì chẳng thể thấy nguyên lý của vạn vật. Vậy thì người trí thức là người nhìn xa trông rộng! Là người ngồi trong màn trướng biết việc ở ngoài ngàn dặm, chứ không thể là thứ gà mờ, xẩm sờ voi, tích lũy vài ngăn kéo chữ mốc meo, hỏi cái gì cũng thủ thế bằng cách nói nước đôi để bảo toàn mình.

Tâm cảm thời đại là gì? Một người ngồi xe bò không thể có trải nghiệm gió thốc vào ngực, nhưng người đi xe lửa cảm thấy rõ gió đang quất vào ô cửa. Người đi xe bò càng không thể nào cảm thấy sự hẫng trọng lượng khi máy bay cất cánh và hạ cánh. Và người đi thuyền chèo tay làm sao có thể thấy sóng rẽ trắng xóa sau đuôi tầu cao tốc. Tâm cảm thời đại chí ít là tốc độ mà con người cảm nghiệm người ta đã tăng tốc vào thời đại thế nào, tâm cảm đó không chỉ là xúc cảm tươi mới mãnh liệt khiến người ta thăng hoa, mà nó còn biến thành hiệu quả của thời đại mới, như người ta từng chứng kiến những con đường sắt đã tạo ra sự thay da đổi thịt nhảy vọt cho nhiều vùng quê hẻo lánh.

Chiếc máy bay dù hiện đại, nhưng không thể cất cánh lên trời nếu không có hệ thống ra đa, ăng ten dẫn đường. Ăng ten muốn dẫn dường, nó phải nhạy cảm và run rẩy như một cành liễu gió chỉ thổi nhẹ đã đung đưa vậy. Một người trí thức mà không có ăng ten thời đại, thì cũng chẳng khác gì một phi trường nằm liệt vị, không dám cất cánh, cũng chẳng có hạ cánh, chỉ có rúc sâu xuống hầm ăn uống ngủ nghỉ rồi cho đó là hạnh phúc.

Người Trung Quốc và người Việt Nam có cách sống đi học để làm quan “học nhi ưu tắc sĩ”. Người Việt còn mã hóa thành ước mơ “học gạo”. Cái học chí thiết lắm, học ngày học đêm chưa đủ, mà lúc nào cũng lẩm nhẩm, ghi chữ ra giấy cho vào túi quần, đi đâu cũng nghiền cho thuộc. Nhưng than ôi, học bao nhiêu cũng chỉ để kiếm miếng ăn, tức là có gạo, rồi sau được bổ làm quan lo xếp ghế. Giờ đây người ta đổ xô nhau đi cầu ấn đền Trần, rồi mua bằng cấp giả, cũng là cách để cầu quan. Cái học của người Việt có rất ít người truy tìm như kiến thức thuần khiết làm niềm vui cho chính tâm hồn. vì vậy mà học bao nhiêu cũng không đến đầu đến đũa, khi cần có ý kiến phán đoán, hay phản biện thì không có nổi lại giở trò nước đôi, rồi “bình” – tán loăng quăng, chẳng ra đầu cua tai nheo gì.

Thực tế cho thấy, cách học phương Đông hay theo lối quân tử Tàu rất hiếm khi tạo ra những con người chững chạc đàng hoàng, trọng chữ tín, họ thậm chí rất hay lỗi hẹn, hứa hão, rồi bốc phét thì không còn bất cứ giới hạn nào không vượt qua, đại loại như, tôi có thể vung tay đánh ngã anh từ cả chục mét, tôi đã điều tâm linh khiến cho cơn bão đó không vào Việt Nam, hoặc sách của tôi sẽ ra thì sách của cả thế giới này vô nghĩa, phải đốt hết đi… nói không thể xuể được sự nói phét và hứa hão của  thứ “quân tử” này, nghĩa là bạ đâu hứa đấy, bạ đâu bốc phét đấy, tất nhiên như thế sẽ tạo ra thứ nhân cách tùy tiện.

Thử một so sánh nhỏ để thấy cái tầm vóc của thứ xếp chữ đầy bồ, những cầu thủ nước ngoài lên lĩnh giải họ còn mặc com-lê thắt cà vạt nghiêm chỉnh. Trong khi đó nhiều nhà thơ, nhà văn đã già đời của Việt Nam lên vô tuyến trả lời phỏng vấn, thắt cà vạt nhưng lại sắn tay áo… có nghĩa là anh ta chẳng hiểu chút gì về văn hóa cả, mà thấy nóng thì tiện vắt tay áo lên. Đấy cũng chính là cách sống tùy tiện của dạng không gốc rễ. Một điều đơn giản mà đến già còn không chịu học hiểu, thì bàn đến văn hóa, lý tưởng hay những thứ cao sang làm gì?!

Có một phương ngôn: “Đa ngôn cũng là đa nhân cách”. Việc nói nước đôi chắc chắn tạo ra sự đa nhân cách. Nói giản dị như người Việt bảo: “nhổ nước bọt rồi lại liếm”. Đa nhân cách cũng chính là chẳng có nhân cách gì bởi vì đó không phải con người có tư cách và bản lĩnh để trụ vững trước sóng gió của cuộc đời, mà chỉ là những thứ phù vân bọt bèo, gió chiều nào xoay chiều ấy. Than ôi, một tâm hồn lung lay yếu đuối như vậy thì làm sao thành tài, có phải vì thế mà cả nước chỉ có thể ngâm nga mấy câu vần vèo. Còn quốc gia thì nghèo nàn, lạc hậu, ẻo lả, xuyên dọc lịch sử chỉ có mỗi áng văn xuôi “Hịch tướng sĩ” và tập truyện vừa “Hoàng lê nhất thống chí”, có được tí Truyện Kiều lại là bản sao chế truyện hạng hai của Tàu ?!

Nước Việt ta có bao nhiêu trí thức đúng nghĩa, thành thạo chuyên môn của mình như một con người chuyên nghiệp? Hãy xem văn học là thứ dễ thấy nhất, nước ta có bao nhiêu người có thể phê bình văn thơ hay viết một bài tiểu luận, con số quanh quẩn mười đầu ngón tay. Liệu có nói lên một thực tế buồn của thứ tư duy lèo lá, xếp chữ, ẻo lả mua vui, kiễng chân khoe mẽ, kiêu hãnh hời hợt của tâm trí học chỉ để tìm cách sa chĩnh gạo?!

NHĐ 01/05/2014

 
                   Sáng tác thơ, làm thơ, và sinh hoạt thơ

                                                         Nguyễn Hoàng Đức


Con số làm thơ ở Việt Nam có lẽ ít nhất cỡ chục triệu người. Căn cứ vào đâu? Theo số liệu thì mỗi năm Việt Nam có gần một triệu người tốt nghiệp phổ thông trung học. Trong mười năm đã có ngót mười triệu người biết đọc biết viết “cao cấp”, trong khi đó, theo truyền thống, người Việt làm thơ truyền khẩu từ lúc chưa biết chữ, sau khá hơn chỉ cần biết đọc biết viết là có thể làm thơ.

Tôi đã sống môi trường văn thơ nước nhà khoảng gần bốn thập niên rồi, nhưng mới đây tôi mới phát hiện ra một điều then chốt: hầu hết người Việt sinh hoạt thơ, chứ chưa làm thơ, và càng chưa bao giờ sáng tác thơ. Đó chính là lý do, cứ tưởng người Việt yêu thơ lắm, đông người làm thơ lắm, cả chục triệu người làm thơ, đó là chưa kể về tiềm năng có khoảng 80% dân số lúc nào cũng có thể cựa quậy làm thơ, vậy mà chúng ta chưa có đỉnh cao nào để ngửa cổ ngắm ngoài thi hào Nguyễn Du có công đánh đu vào cấu trúc “Đoạn trường tân thanh” của Tầu.

Sinh hoạt thơ nghĩa là gì? Để dễ thấy, chúng ta hãy nhìn phong trào hát Karaoke ở Việt Nam. Người ta vào quán hát, không chỉ mỏi mồm mà còn mỏi tay, không chỉ giọng ca vàng mà còn bàn tay vàng khi ngồi bên các em mắt xanh mỏ đỏ ăn mặc tháo khoán “mời anh xơi”, người ta còn mua cả đầu máy về để tự hát ở nhà. Nhiều chuyên gia nước ngoài bình luận rằng: việc hát Karaoke làm cho người ta ảo tưởng về sự vĩ đại của mình, nào là giọng ta cũng lên bổng xuống trầm, ta chăm đi hát, mới dăm lần mà máy đã cho điểm 100, nghĩa là tuyệt đối, như vậy rõ ràng ta đã đạt điểm tuyệt đối, có khác gì các ngôi sao ca hát đâu?! Nếu có thể đếm những người nghĩ vậy, thì bất kỳ xó xỉnh nào, chúng ta cũng có cả một đội ngũ ngôi sao về ca hát. Trời ơi, như vậy thì phong trào “thiên tài” đang hình thành cả một đội ngũ lớn, đông không đếm xuể.

Những “ngôi sao” bên ngưỡng cửa vĩ đại đó là ai và làm được cái gì? Lời bài ca họ còn chưa thuộc, mà có màn hình hiện chữ lên, rồi nhạc đệm phát ra loa, rồi mỗi ca từ còn được tô để chỉ trường độ cho người hát… Tóm lại tất cả đã được làm hộ, ủng hộ người hát 99%, chỉ còn mỗi một việc, anh hay chị hãy làm ngôi sao đi.

Những người hát đã bao giờ là ca sĩ chưa? Nếu họ phải vào lớp luyện thanh nhạc thì mới hiểu nó khó thế nào, trước hết nếu chưa biết nhạc lý cầm bản nhạc trên tay liệu có hát được không? Sau nữa, liệu người hát đó cho dù có là ca sĩ thật thì có phải là người sáng tác bài hát đó – tức là nhạc sĩ không? Còn khi hát thành bài lại phải có người viết hòa âm phối khí… Tất cả cho thấy, người hát Karaoke chỉ là người sinh hoạt phụ họa âm nhạc mà thôi, vì thế chớ nên say đến độ ảo tưởng mình đang ca hát trên con đường vĩ đại?!

Một người sáng tác thơ rồi đọc thơ mình, tức người đó vừa là nhạc sĩ, vừa là ca sĩ hát bài của mình sáng tạo. Nhưng số đông ào ào người lao vào thơ là để sáng tác hay là sinh hoạt kiểu Karaoke? Số người sáng tác ư? Nếu đông đến vậy, thì Việt Nam phải có rất nhiều đỉnh cao về thơ chứ. Nhưng xét kỹ, ngay cả những người rất nổi tiếng, vẫn được mệnh danh là thi sĩ của một bài, với độ dài ngắn tũn của nó, ngắn tũn ở đây không phải bò theo lời biện hộ “quí hồ tinh bất quí hồ đa”, mà là, nó chưa đủ độ dài - rộng-cao-sâu để thể hiện tính kiến trúc của tác phẩm.

Trong thực tế, tôi đã gặp rất nhiều người làm thơ đến mụ mị ở Việt Nam. Cứ có dịp là họ nói về thơ, suýt xoa, đem thơ mình ra đọc, rồi quăng qua ném lại những lời khen ngợi hay chê bai thơ của người này người khác… nhưng rất tiếc đến lúc tôi nhận ra một điều, họ luôn luôn chỉ cưỡi ngựa xem hoa khoe mẽ thi ca, nhưng bảo họ bình một câu thơ, họ liền bình “trật đường ray” ngay lập tức. Nghĩa là họ ít khả năng đến mức, không thể để con tầu thi ca chạy trên đường ray. Đây chính là cách nghĩ à uôm, ù xọe, thiếu nghiêm túc của người Việt. Vì thiếu lý trí nghiêm túc, nên cả đời người ta cà chớn, đùa cợt, không dám chịu trách nhiệm về bất kể điều gì, họ giống người lân la đến sân khấu thơ, thấy thuận lợi bèn nhảy lên sân khấu kiếm tí danh hão, mà họ không bao giờ dám là võ sĩ nhảy lên sân khấu tỉ thí, nếu thắng thì vinh quang, nếu thua thì sứt đầu mẻ trán. Họ cũng không bao giờ dám làm một nhà bác học ngồi trong phòng thí nghiệm có đầy chất phóng xạ… thực ra có thể mô hình thế này, họ muốn làm quan nhưng không muốn học, có học thì chớt nhả, mà chỉ muốn ham vui như Cao Cầu đá cầu hầu quan, rồi hầu vua, thế mà làm nên chức tể tướng.

Cái học của người Việt và người Trung Quốc dù có sôi kinh nấu sử cũng chỉ tìm cách để làm quan. Sau khi đã làm quan thì dùng ít chữ tí toáy kiếm tí danh hão của vĩnh cửu, chứ không có đến 1% người Việt học chữ để mở màn cho tư duy lý trí. Đây cũng là kiểu học ngày xưa, bao năm đèn sách cuối cùng vẫn chỉ bẻm mép đọc hai câu đối hay làm bài tứ tuyệt vẻn vẹn bốn câu. Việc Hội Nhà văn, tết nguyên tiêu năm nào cũng thả bong bóng hai câu thơ lên trời Văn Miếu, chẳng phải cái thú chơi thơ, sinh hoạt thơ ư? Đó có phải ảo tưởng vĩ cuồng của văn hóa karaoke khi cho rằng thơ hay của ta đang dâng lên thánh thần ở núi nùng nào đó? Liệu thơ đó có trở thành của quí dâng lên đỉnh Ô-lanh-pơ không? Chắc không bao giờ, vì các thánh thần trên đỉnh Ô-lanh-pơ luôn đòi hỏi tính triết lý và cấu trúc, với gót chân trần của thi nhân Homer, với những ngón tay gảy đàn lia thiện nghệ, hàng lệ nhân sinh ứa qua đôi mắt đã mù, và giọng nói lần theo những nhân vật vĩ đại  cao cả đăng quăng mình giữa muôn trùng bi kịch… Còn thơ bong bóng tem phiếu Việt Nam có gì? Mấy xúc cảm lèo tèo, ngâm nga hai câu lấy lệ, được thả lên trời theo bong bóng của những ông già vờ vịt ngước mắt lên làm bé thơ. Nhưng than ôi những tâm hồn mưu mẹo qua từng con chữ ấy, làm sao có nổi ánh mắt hân hoan của trẻ thơ. Nếu có chút hồn nhiên thì đó chỉ là một chút hoài niệm “lại gạo” của tư duy cả đời không thoát khỏi ngê nga vần vèo.

Đấy là cách tôi mô hình hóa bằng văn học, còn trong thực tế, có rất nhiều vị giáo sư, tiến sĩ cùng chẳng biết làm gì hơn ngoài thơ. Nhưng dẫu vậy, cả đời họ cũng chỉ tìm cách tô viền ngoài mà không bao giờ dám bước thẳng vào chiếu thơ. Tại sao? Vì họ không đủ bản lĩnh và tự tin để bước vào thơ với tính cách chuyên nghiệp. Và cũng chính vì thế họ không bao giờ trông giống nhà chuyên nghiệp cả cho dù họ bình chỉ một câu thơ – vẫn không bao giờ có đường ray.

Hầu hết người Việt yêu thơ bằng cách sinh hoạt thơ, bởi vì đó là cách nhàn nhã nhất nhưng cũng dễ gặt hái vinh quang nhất. Còn thứ vinh quang nào tiện hơn chỉ một bài thơ làm trong lúc trà dư tửu hậu, một buổi chiều, một buổi tối, hay qua một lúc với nàng đã thành những câu thơ tình như kiểu “em vỡ òa trong anh”, rồi tìm cách leo mặt báo, thế là nổi tiếng khắp nước. Một người hát Karaoke tưởng mình thành ngôi sao ca nhạc. Vậy thì nhiều người nghê nga sinh hoạt mấy vần thơ tưởng mình đang lân la bên thềm Nobel thì cũng chỉ là ảo tưởng hão mà thôi. Có người còn bỏ công tìm xem tỉ lệ người đoạt giải Nobel thơ so với văn chương là bao nhiêu. Còn kỳ lạ hơn, nhưng người này luôn nêu ra những giải Nobel giá sàn, thấp đáy nhất để mong mình được ưu tiên như vậy. Sao không ngước lên nhìn những Nobel giá trần, mà cứ thích ngắm giá sàn?

Đó là tôi chưa kể có rất nhiều nhà thơ bỏ nhiều giờ bài bạc rồi say sưa tối ngày, sau đó làm vài bài thơ ngắn tũn, rồi biện hộ bằng được rằng mấy bài ngắn tũn đó là những công trình vĩ đại không cần hành quân bằng đôi chân mà đã mua được vé, xin được hộ chiếu sắp bay qua biên giới Thụy Điển rồi, chỉ còn động tác lách cửa cuối cùng nữa thôi, ở Thụy Điển chắc cũng giống HNV Việt Nam, lòng vả như lòng sung, cứ loay hoay chạy chọt chắc là vào?!

Với bài này tôi xin chia sẻ và cũng thông điệp rằng: đa số rồi hầu hết các nhà yêu thơ rồi làm tí thơ ở Việt Nam, các bạn chưa sáng tạo thơ đâu, các bạn mới chỉ sinh hoạt thơ thôi. Khi đưa chiếc micro của quán cà phê lên miệng đừng có ngỡ mình là ca sĩ! Và khi ngê nga mấy vần thơ không nên tưởng rằng ta đã sáng tạo thơ. Một quả tên lửa không sửa soạn buồng đốt cho mình làm sao có thể phóng lên trời. Bèo dạt mây trôi nhảy nhót sân nhà làm sao có thể ảo tưởng là cả giàn “tên lửa” chúng mình sắp được thả theo bóng bay lên trời? Đó có phải hình ảnh đích thực của thơ Việt Nam không?!

NHĐ 17
/04/2014 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

BÀI MỚI ĐẮNG

Truyện ngắn: BÊN CÁNH GÀ CHÁNH ĐIỆN _ NGUYỄN HẢI ĐĂNG

Bên cánh gà chánh điện phần 1 BÊN CÁNH GÀ CHÁNH ĐIỆN Xe dừng lại với tiếng xột xoạt trên mặt đường, như bao chuyến xe đã ghé qua từ thuở ...