Nguyễn Nguyên Bảy và thơ
(Toquoc)- “Tôi không phải nhà văn, nhà thơ. Tôi chỉ là người chép chữ xuôi rồi bảo là văn. Chép chữ vần rồi bảo là thơ. Chép từ hồi tiểu học Lương Yên những năm đầu giải phóng Thủ đô, bạn “lớp chúng mình” gọi đùa Trương Chi. Chép chữ suốt từ ấy đến giờ, ngày nào ít nhiều cũng chép. Tôi là một nghiệp dư thơ. Một nghiệp dư say mê thơ điên cuồng, chép chép ghi ghi và chôn ghi ghi chép chép ấy vào mộ huyệt của im lặng, chỉ thỉnh thoảng, không cưỡng nổi điên khùng, nửa đêm thức giấc, ngửa mặt nhìn trời đọc thơ gửi mây, tặng gió… Thơ là thơ. Vì ba từ của định nghĩa ấy tôi đã suýt xong một đời. Thơ là thơ. Thơ không phải là địa vị của người làm thơ. Mười lăm chữ ấy đủ cho một bản án không tuyên”.
Đây chính là những lời giãi bày gan ruột của Nguyễn Nguyên Bảy về nghiệp cầm bút. Ta có thể coi đó là tuyên ngôn nghệ thuật của ông về thơ. Dù ông không nhận và chưa bao giờ nhận mình là nhà văn, nhà thơ nhưng tôi nghĩ rằng ông xứng đáng để được gọi bằng những danh hiệu đó.
Nguyễn Nguyên Bảy ý thức sâu sắc rằng: “Thơ ca hiện diện như một chiếc gương, soi vào đấy hiện lên vẹn toàn gương mặt thi nhân. Hồng mặt gương hay xám ngoét mặt gương, thi nhân tự thức”.
Tôi buồn cho ông, buồn cho những người cùng thời với ông vì không gặp thời mà phải lận đận với nghiệp cầm bút. Tôi cũng thực sự khâm phục, kính trọng Nguyễn Nguyên Bảy bởi sự khiêm tốn, thẳng thắn, cương trực; sẵn sàng chịu “phạt” để giữ vững lập trường, để sống và chết với văn chương một cách thanh sạch. Để khỏi phải hổ thẹn với lương tâm và trách nhiệm của một người cầm bút chân chính. “Muốn sống cho thơ, duy nhất một con đường nín lặng mà yêu thơ, mà chép thơ, và chấp nhận một nghiệp dư, mà góp tiếng thơ cho yêu mến đồng bào, cho ngoại sử của non sông”.
Nguyễn Nguyên Bảy là người lặng lẽ sống, lặng lẽ viết, chuyên cần, chăm chỉ khâu gió dệt nắng tưởng như mơ hồ…
Ông là một người hiểu biết về thơ. Tôi thích nhất cách mà Nguyễn Nguyên Bảy gọi những bài bình bằng một cái tên khác cách gọi thông thường đó là “Đò đưa”, cách gọi này vừa quen, vừa lạ, vừa giản dị khiêm nhường nhưng nó cũng hàm chứa ý nghĩa vô cùng sâu sắc. Phải chăng, cuộc đời cầm bút với những trải nghiệm thực tế đã giúp ông đưa ra những cách gọi mới, sát đúng với thực tế như vậy?.
Đọc những gì Nguyễn Nguyên Bảy viết ta có thể khẳng định những trang thơ của ông chính là những trang đời. Dù ông viết về đề tài, chủ đề gì đi chăng nữa nó cũng thấm đẫm tinh thần nhân văn, nhân ái- “da diết nỗi đời, nỗi người, nỗi nhân tình thế thái”.
Cuộc đời ông đã đi và trải qua nhiều thăng trầm, tất cả không sao xóa được, được tạo dựng nên bằng những lớp kỷ niệm. Những kỷ niệm ấy lần lượt sống dậy trong thơ, nó trở thành nỗi nhớ niềm thương và cả những đau xót nghẹn ngào về những tháng năm bần hàn, cơ cực phải làm nhiều nghề để sinh sống. Khi gia đình Nguyễn Nguyên Bảy gặp nạn vì thơ. Họ đành phải rời Hà Nội - mảnh đất mẹ, nơi chôn nhau cắt rốn vào Nam với bao ức uất. Nhưng may mà vợ chồng ông vẫn một mực tin tưởng, yêu đời và nghĩ rằng sẽ có một ngày mai tươi sáng, một ngày nào đó trắng đen sẽ rõ ràng. Tất cả mọi thứ sẽ trở về giá trị thực như nó vốn có. Vợ chồng ông sẽ được minh oan, sẽ sống cuộc đời vui, có ý nghĩa ở những ngày tháng còn lại phía trước. “Niềm tin ấy son sắt lòng tôi và tôi đi theo niềm tin ấy, không sợ cam go, không vướng muộn phiền. Và thơ tôi ra đời như thế, đều đặn, tự nhiên mà sung sướng với đời” (Nguyễn Nguyên Bảy). Dù mấy chục năm xa đất Bắc, xa Hà Nội nhưng trong tâm can vợ chồng ông vẫn luôn hướng về nơi đất Bắc, với một nỗi nhớ cồn cào, da diết. Tất cả cả trở thành máu thịt, niềm yêu thương vô bờ.