Thứ Hai, 23 tháng 9, 2024

THƠ HOÀNG NGỌC ANH

Tháng chín ta chọn nơi làm quê nhà Sông Đốc có dòng chảy giống sông quê nhà Cũng gió cũng hoàng hôn úp xuống Bến bãi cũng hát bài chia tay ngày ấy Đời buồn cũng cố mặt làm hoa Đời cho ta nghề hay ta chọn nghề Trăn trở mãi thành ra phi lý Phượng sân trường thành hình bao ý nghĩ Màu phấn màu chàm trộn lẫn đam mê Lạ hoắc một phương trời xa Bìm bịp chào ta buổi chiều nước lớn Gặp bữa nước ròng ta chợt nhớ mẹ cha Đờn tài tử dỗ ta về mộng mị Hồn xa quê thằng nhỏ gốc Miền Trung Súng sen đó nơi nào cũng tím Mà sao ta cứ mãi sắt se lòng Tháng chín về hồ như hồn tịnh ngộ Chiếc lá xanh nhớ sinh nhạt đời mình Ơi Phương nam có một thằng gieo chữ Chữ nghề gặp trắc trở vô duyên T.huynh23.09.2024 Cảm tác lúc ngẫu hứng

Thứ Sáu, 20 tháng 9, 2024

BÙI BÁ ĐÔNG NƯƠNG VÀO CỐ THỔ TRẦN ĐỨC TÍN

Cảm ơn Anh Khét Trần Đức Tín đã thương " nương mùa cố thổ" Bùi Bá Đông nương vào cố thổ (Đọc tập thơ Nương mùa cố thổ của Bùi Bá Đông) Từ lâu khi đọc những tác phẩm văn chương của các nhà thơ sinh ra và lớn lên ở đồng bằng sông Cửu Long, tôi luôn có cảm giác rằng tác phẩm của họ được (bị) ám tượng bởi sông. Như tập tục của người đồng bằng, họ xây nhà, sinh sống từ lúc chào đời cho đến khi lớn lên, vui buồn, khóc cười đều gắn bó với sông. Và điều đó đã được thể hiện rõ nét qua tác phẩm của họ. Đó là một cảm thức sông. Bùi Bá Đông một nhà thơ 9x, Hội viên Hội VHNT tỉnh Trà Vinh, sau nhiều năm “dan díu” với thi ca, anh cũng vừa cho ra đời tập thơ đầu tay Nương mùa cố thổ (Nxb Hội Nhà văn 8/2024). Và dĩ nhiên, tập thơ cũng mang cảm thức sông một cách ám ảnh qua 36 bài thơ được anh chắt lọc, nâng niu đưa vào thi tập này, như anh cũng hiểu rõ lòng mình: sông dài không em/ sao mắt ta chưa lần chạm/ chỉ nghe lòng/ vỗ nhịp chèo khua – Theo sông. Như bao nhiêu người tuổi trẻ tha hương lập nghiệp nơi phồn hoa phố thị, ngày đi, ba lô con chỉ mang theo ước mơ mộc mạc và khói bếp quê nhà, nhánh bần gie, khúc sông nhỏ… anh đi qua bao mùa tha hương, chật vật mưu sinh dưới cái rộn ràng thành phố lại nghe “lòng còn đói tiếng quê hương”: ở đây/ ta rong rêu chính mình/ nỗi nhớ khô trên ngọn đèn đường/ đói tiếng quê hương. Tôi thắm lắm cái buồn xa xứ ấy, khi tuổi trẻ căng tràn sức sống nhưng nghịch lý thay đôi tay lại trắng bàn tay. Có nhiều đêm thức trắng, người thơ của ta cũng tù mù như ngọn đèn vàng vọt phía cuối hẽm hun hút, lạnh lùng, cô đơn. Cái cô đơn muôn đời khó giải bày, anh chỉ nghe tương lai kêu lên rệu rã trong bốn bức tường trắng của phòng trọ lặng thinh: em đừng ru nữa/ phố chẳng còn đủ chỗ để ngồi nghe/ bông cải nào gió đưa về mây trắng/ thương nỗi buồn nghẹn lại phía hoàng hôn. – thôi đừng ru nữa. Nỗi buồn nghẹn của phía hoàng hôn, của mặt trời từng lựng đỏ ấy đến khi xế chiều tắt nắng vẫn nghẹn ngào không tỏa sáng nổi một vùng trời, đó không gì khác hơn là lý tưởng tuổi trẻ, là ái ân cũ càng, là suy tưởng tuổi đôi mươi mạnh mẽ nhưng cũng đôi lần yếu đuối với chính mình. Mỗi bận buồn, nhà thơ trẻ đã trôi theo cảm thức sông, thả mình theo sông như một quán tính đồng bằng một cách vô thức. Anh khánh tận kiệt cùng với thực tại nên di trú giấc mơ mình để nuôi những điều ấp ủ: đêm qua/ có giấc mơ vừa mọc rễ/ xuyên qua căn phòng chật chội// gọi nhau về/ bằng dấu những đôi tay. – di trú giấc mơ. Trong nguồn cơn của hơi thở, anh biết mình thuộc về sông, về ruộng đồng, bờ bãi, về quê hương “trong giấc mơ neo cạn/ khói đồng bằng cay mắt phố chưa quen”. Bùi Bá Đông trở lại với quê bằng nhiều cách, qua thơ, tôi thấy anh đã bày từng giấc mộng quê của mình ra căn trọ nhỏ, anh đặt lại tên cho những chuyến phà qua sông, lặng lòng đứng ngắm chiều vàng rượi buồn khi sông quê mình khô cạn, anh thổn thức, anh bất lực, anh gào lên trong thơ từng mạch tình đứt quãng như nhánh sông trơ đáy mùa hạn: sông đã chết/ còn đâu, sông đã chết/ bỏ cong thuyền úp mặt đợi tàn hơi/ cơn gió lạnh ngang qua vùng đất lạnh/ ta thấy người/ tay níu cuộc chia ly – mót cạn dòng trôi. Với tác phẩm văn học, ngoài những phương diện nghệ thuật ra, vấn đề văn học nghệ thuật có chuyển tải được nội dung, thực tế của cuộc sống không luôn là vấn đề luôn được quan tâm. Và tập thơ Nương mùa cố thổ của Bùi Bá Đông đã lồng ghép được vấn đề đó vào thơ, dầu ít nhiều. Tôi cho rằng đây là điều đáng trân trọng ở người viết trẻ như Bá Đông. Ngoài ra, những câu thơ của Bá Đông đã gợi lên nhiều điều suy tưởng cho người đọc, cái kết của bài thơ không nằm ở dấu chấm. Thơ Bá Đông khi gấp lại vẫn còn những ý man mác buồn, những tứ cứ lưu lạc trong lòng mãi mới rứt ra được, dù anh không cố tình triết lý, anh viết như thì thầm nhịp sông: và mẹ tôi chiều chiều ra bậu cửa/ dõi cánh cò trong câu hát vừa bay – nhớ cù lao. Chính những phong vị trong thơ Bùi Bá Đông trên, tôi đã thấy một Bùi Bá Đông như sông vậy, anh nuôi nấng mình bằng những luồng lạch của sông và sông đã ấp ôm anh khôn lớn. Trong văn chương đồng bằng sông Cửu Long hiện tại, Bùi Bá Đông đã tiến bước đầu tiên, thả nhánh sông đầu tiên của mình vào dòng chảy chung của văn chương nơi đây. Dẫu ít dầu nhiều, tác phẩm đầu tay không tránh khỏi những non nót, sáo rỗng trong ngôn từ và suy tưởng. Nhưng tôi tin rằng Bùi Bá Đông sẽ vững tiến hơn, và Nương mùa cố thổ là một thi phẩm đáng đọc, là một cột mốc vững vàng của anh trên con đường văn chương sắp tới. Kỳ Sơn

Thứ Hai, 16 tháng 9, 2024

TU PHẬT ĐỂ LÀM GÌ?TU PHẬT PHẢI LÀM GÌ?_ TÂM NGUYỆN

TU PHẬT ĐỄ LÀM GÌ ? TU PHẬT PHẢI LÀM GÌ ? TÂM NGUYỆN T rước 1975, một giáo viên trẻ, giỏi ngoại ngữ có quen nhiều người nước ngoài cho biết, anh có gặp một người Nhật, không biết thuộc giáo phái nào, đã qua Việt Nam, thuê nhà ở Quận 5 Chợ Lớn, mục đích là để chờ gặp Vị Giác Ngộ mà họ cho là đã tái sinh tại Việt Nam. Năm 1976 ông ta vẫn còn, nhưng sau đó thì mất liên lạc, có lẽ ông ta đã quay về Nhật. Trong vài năm đầu Giải Phóng, tôi có đọc được một tin đăng trong Báo Xuân TIN SÁNG của Ngô Công Đức (Báo Tin Sáng chỉ tồn tại có vài năm sau 75). Ở tranh cuối, sát bìa, có bài viết ngắn như sau : Có một Phái Đoàn quốc tế viếng Việt Nam, được hướng dẫn đi tham quan Thảo Cầm Viên. Khi Hướng dẫn viên giới thiệu tên khoa học của một loài hoa có tên là Vàng Anh : Saradica Indica thì đột nhiên cả Phái Đoàn quỳ sụp xuống tỏ vẻ cung kính. Hướng dẫn viên ngạc nhiên không hiểu vì sao. Hỏi ra, thì Phái Đoàn cho biết: Đó là tên của một Vị Cổ Phật mà họ đi tìm khắp thế giới nhưng không gặp. Không ngờ đến Việt Nam thì lại được nghe xuớng tên. Hoa này cũng có tên là Hoa Vô Ưu. Nhiều năm trước, tôi có một bà bạn lớn tuổi, nhân dịp đi du lịch Miền Trung theo đoàn đến một ngôi Chùa. Bà thấy trên quầy lưu niệm có Tượng Phật Chuẩn Đề là tượng bà muốn thỉnh từ lâu nhưng không gặp, nên bà rất mừng, gọi nhân viên trông coi quầy để được thỉnh Tượng. Cô này bảo bà chờ một lúc rồi đi mời Trụ Trì ra. Trụ Trì giải thích cho bà biết : Tượng này là của một vị Sư ở Tích Lan hay Miến Điện (câu chuyện nghe đã lâu nên tôi không nhớ rõ. Nhân vật chính cũng đã qua đời nên không hỏi lại được). Vị Sư này mỗi năm qua ngụ ở Chùa 6 tháng để chờ gặp người thỉnh tượng là người có liên quan đến dòng Chánh Pháp tại Việt Nam. Tượng này do chính tay Sư tạc gởi tại quầy, dặn khi nào có người muốn thỉnh thì báo lại với Sư. Thời điểm đó vị Sư tạc tượng đã về nước, nên Trụ trì yêu cầu bà ghi lại địa chỉ, số điện thoại để khi Sư quay lại sẽ báo với Sư. Nhưng sau đó một thời gian thì bà này bán nhà, dời đi, nên không biết vị Sư đó có trở qua Việt Nam hay không ? Bà cũng qua đời cách đây mấy năm. Tượng vẫn được đặt trên bàn thờ của gia đình. Hoa Ưu Đàm là loại Hoa tương truyền chỉ nở khi có Phật hay vị Chuyển Luân Thánh Vương ra đời, đồng loạt nở từ 1977. Đầu tiên là ở Hàn Quốc rồi Đài Loan, Singapore, Mỹ, Úc, Trung Quốc. Năm 2012 thì ồ ạt xuất hiện ở An Giang, Hà Nội, Hải phòng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quảng Bình, Huế, Nghệ An, Đắc Lắc, Tuy Hòa, Phú yên, Nam Định. Năm 2015 thì ở Sơn Trà, Tp Hồ Chí Minh, Cung Văn Hóa Tao Đàn Quận 1, Quận 7, Thủ Đức, Cái Bè, Tiền Giang. Năm 2017 còn xuất hiện trên dây đèn trang trí Noel của linh Mục Giuse Vũ tại Nhà Thờ Mai Khôi. Gia đình tôi trồng Thanh Long thì hoa mọc trên dây Thanh Long, trên hoa Dừa cạn trước nhà. Cách đây vài tháng thì mọc trên màn hình Máy Vi Tính…Gần đây nhất là trên cốc của Tu Sĩ Minh Tuệ. Một số nhà Khoa Học cho rằng đó chỉ là trứng của một loại côn trùng có tên là Lacewings. Nhưng người dân ở Lalaca Malaisia đã phát hiện cả hoa và trứng. Ông Lê Văn Mậu là một Thạc Sĩ Sinh học ở Tuy Hòa, Phú Yên, cũng có nghiên cứu rất kỹ và khẳng định đó là hoa chớ không phải trứng. Nhưng dù không đúng là hoa Ưu Đàm đi nữa thì sự xuất hiện đồng loạt, trước đến giờ chưa từng xảy ra, để nhiều người ngộ nhận là Hoa Ưu Đàm hẳn cũng là một điềm lành. Một số thông tin rời rạc từ nhiều nguồn, nhưng đều báo cho biết là Chánh Pháp sắp ra đời, và nhiều người tu hành ở nhiều nước đều cho rằng Chánh Pháp sẽ ra đời tại nước ta. Gần đây nhất là hiện tượng của Sư Minh Tuệ với Hạnh Đầu Đà được nhiều người tu hành trên nhiều nước cho rằng đó là Phật tái thế và nhiều phái đoàn đã đến nước ta để đảnh lễ. Tu Sĩ Minh Tuệ có phải đúng là sứ giả của Đạo Phật ? Hạnh Đầu Đà và nếp tu hành du phương, bỏ đời, bỏ cả gia đình, ngụ ở gốc cây, nghĩa địa hay nhà hoang và chỉ khất thực để sống có phải là mục đích tối hậu của người tu Phật hay không ? Chính Kinh nói gì về việc tu hành theo đúng Chánh Pháp ? Để trả lời cho câu hỏi này buộc chúng ta phải quay về điểm xuất phát của Đạo Phật, rà soát từng lý do từ cái Phát Tâm cho đến cách tu hành, Pháp Chứng Đắc của Đức Thích Ca để xác định, vì từ sau khi Phật nhập diệt khoảng 200 năm thì các Đệ Tử của Phật phân chia thành Hai Thừa, thì ĐẠI THỪA cũng như TIỂU THỪA mạnh ai nấy chia nhau đi khắp nơi để giảng pháp. Chân tu hay giả tu. Hiểu nhiều, hiểu ít, miễn là xuất phát từ Chùa chiền, đầy đủ hình tướng, là đều có thể giảng Pháp. Nhất là từ khi Y Bát được Lục Tổ dấu đi không còn Truyền nữa thì bá tánh không còn làm sao phân biệt được ai là người có nhiệm vụ nối truyền Chánh Pháp, ai là tự phát, vì ai cũng dựa vào hình ảnh của Đức Thích Ca để rao giảng, và đều cho rằng mình đang “Hoằng dương Chánh Pháp” của Đạo Phật. Từ đó đến nay đã có biết bao nhiêu đợt Tu Sĩ Xuất Gia tu hành. Nhưng không hiểu vì sao Đức Thích Ca đã Thọ Ký : “Tất cả chúng sinh là Phật sẽ thành” , mà từ mấy ngàn năm qua, ngoài những vị Phật được xưng tụng từ trước đến nay như PHẬT THÍCH CA, A DI ĐÀ, DI LẶC sao không thấy nghe ai nói đã THÀNH PHẬT ? như vậy chẳng lẽ lời Thọ Ký không linh ứng ? Các vị Phật quá khứ đã làm gì để thành Phật ? Thành Phật có phải là thành THẦN LINH để cứu độ cho bá tánh không ? Nếu chúng ta muốn Thành Phật thì phải làm gì ? Chẳng lẽ chúng ta cứ đi tu mù rồi tới đâu thì tới, vì nếu có cầu mong là Vọng động ? Như vậy không khác nào là một thách thức đối với người muốn TU PHẬT. Bỏ đời để đi tìm một thứ gì đó mà không biết cách để tìm. Không nhận diện được mà cũng không biết sẽ gặp được hay không ? Muốn theo một Tôn Giáo nào đó, nhất là muốn xuất gia tu hành thì điều chúng ta cần biết là chủ trương của Tôn Giáo đó là gì ? Kết quả là gì ? Chúng ta vẫn ngưỡng mộ sự Chứng Đắc của Đức Thích Ca, nhưng sự Chứng Đắc hay Thành Phật của Ngài mang ý nghĩa gì ? Ngài đã làm thế nào để Chứng đắc ? Những gì Ngài truyền có giá trị thế nào đối với con người, với cuộc đời ? Người hành trì theo sẽ được những gì ? Có xứng đáng với công sức bỏ ra không ? Vậy thì PHẬT LÀ GÌ ? TU PHẬT ĐỂ LÀM GÌ ? TU PHẬT PHẢI LÀM GÌ ? Tôi tin là bất cứ ai, nếu muốn đi cho đến đích của Đạo Phật đều phải tìm cho ra câu trả lời cho bản thân trước khi dấn thân vào con đường tu hành, nếu không muốn đi mà không bao giờ đến. Đó là điều không thể chấp nhận được với con người ở thời đại văn minh, khoa học, mọi thứ đều lý giải được này. Có lẽ tốt nhất là chúng ta nên quay lại hành trình xuất gia đi tìm Đạo của Đức Thích Ca để hiểu cho rõ ràng hơn. Lịch Sử Đạo Phật có ghi lại, là trong một lần đầu tiên đi dạo ở ngoại thành, trông thấy cảnh con người bị hành hạ bởi cảnh SINH, GIÀ, BỆNH, CHẾT, làm Thái Tử Sĩ Đạt Ta động tâm. Về cung Ngài cứ suy nghĩ mãi, muốn tìm xem có cách nào đó để Thoát khỏi cảnh SINH, GIÀ, BỆNH, CHẾT đè nặng lên cái Thân của con người hay không ? Thấy rằng nếu cứ quanh quẩn trong triều với vợ, con, với việc triều chính thì không thể nào tìm ra được câu trả lời, nên trong một đêm nọ, Thái Tử cùng với một quan hầu giữ ngựa lẻn ra khỏi thành. Đi một quảng khá xa, Ngài kêu người giữ ngựa mang con ngựa trở về, để một mình rong ruổi theo những đoàn Du Tăng, mong tìm được câu trả lời cho vấn đề làm Ngài trăn trở. Sáu năm, học với Sáu vị Thầy giỏi nhất. Hành đủ cách : Từ Khổ Hạnh, khỏa thân, nhịn đói đến cơ thể suy kiệt, suýt chết.. nhưng chỉ học được một số phép Thần Thông, mà câu trả lời cũng không thấy. Cuối cùng, Ngài thấy rằng “Tinh thần không thể minh mẫn trong một thể xác yểu đuối”, nên nhận bát cháo sữa của cô gái chăn bò, rồi trải tòa cỏ, ngồi THIỀN ĐỊNH dưới cội cây Bồ Đề. Rạng sáng đêm thứ 49 thì Ngài có câu trả lời : Là tìm ra thủ phạm đã gây nên cảnh SINH, LÃO, BỆNH, TỬ cho cái Thân con người cũng như cách thức để khống chế hắn, nên xả Thiền, đứng dậy tuyên bố : “Ta lang thang trong vòng Luân Hồi, qua bao nhiêu kiếp. Tìm mãi mà không gặp KẺ LÀM NHÀ. Hỡi Kẻ Làm Nhà. Ta đã gặp được ngươi rồi. Ngươi không được Làm Nhà nữa. Bao nhiêu cột kèo của ngươi đã gảy vụn cả rồi. Rui mè của ngươi cũng tan nát cả rồi. Trí ta đã đạt đến Vô Thượng Niết Bàn. Ta đã hoàn toàn Giải Thoát”. Sau đó, Ngài đã dùng hết cuộc đời còn lại để truyền bá cách thức THOÁT KHỔ, THOÁT SINH LÃO BỆNH TỬ. Con Đường này gọi tắt là ĐẠO PHẬT. Nghĩa của ĐẠO, là Con Đường. PHẬT là Giải Thoát. Không phải Đạo Phật là Đạo dạy Thờ Phật như một số người vẫn nghĩ. Qua lời tuyên bố của Đức Thích Ca thì chúng ta đã thấy được 3 vấn đề : 1/- Lý do Thái Tử Sĩ Đạt Ta đã bỏ ngai vàng, vợ và con còn nhỏ để dấn thân đi tìm câu trả lời cho điều Ngài trăn trở, là để để tìm gặp THỦ PHẠM ĐÃ XÂY NÊN NGÔI NHÀ SINH TỬ trên Cái THÂN con người. 2/- Cách thức mà Thái Tử tìm và thành công, là 49 ngày đêm THIỀN QUÁN (VIPASSANA), sau khi áp dụng nhiều phương pháp như Khổ Hạnh, nhịn đói, lõa thể không có kết quả. 3/- Kết Quả cuối cùng gọi là Đắc Đạo, tức là Gặp Được, hay tìm ra được Thủ Phạm gây ra SINH LÃO BỆNH TỬ cũng như Cách Thức để không còn bị nó khống chế nữa, gọi là được Giải Thoát. Đó là CON ĐƯỜNG TU HÀNH, THÀNH PHẬT của Đức Thích Ca. Như vậy, nếu chúng ta muốn bắt chước thì phải có cùng suy nghĩ giống như Đức Thích Ca, và hành động giống như Phật đã làm và thành công : . a)- Phải thấy đời là KHỔ, sợ Khổ, rồi Phát tâm tu hành để Thoát Khổ. b)-Phải biết rằng Đức Thích Ca đã đắc đạo bằng cách TÌM RA THỦ PHẠM ĐÃ XÂY NGÔI NHÀ SINH TỬ VÀ PHÁ NÁT VẬT LIỆU CỦA HẮN. Vậy nếu muốn Đắc Đạo như Dức Thích Ca thì bổn phận người đi sau như chúng ta phải tìm để hiểu : Kẻ XÂY NHÀ SINH TỬ là ai ? Ở đâu ? Vật liệu của hắn là gì ? Làm cách nào để phá nát để hắn không thể xây nhà Sinh tử cho ta được nữa ? Theo Đức Thích Ca, KẺ XÂY NGÔI NHÀ SINH TỬ chính là CÁI TÂM MÊ. Vì Mê Lầm nên tưởng rằng Cái Thân Giả Tạm là Mình, nên ở trong đó rồi điều khiển Lục Căn làm những hành động sai quấy nhằm phục vụ cho Cái Thân, gọi là Tạo Nghiệp. Cũng chính vì tạo Nghiệp mà phải Luân Hồi để trả, làm thành vòng SINH TỬ LUÂN HỒI. Con người Sinh ra là để TRẢ Nghiệp đã gieo. Trong thời gian Trả Nghiệp cũ lại gieo thêm Nghiệp mới. Vì vậy, con người hết Sinh rồi Tử. Tử rồi lại Sinh, làm thành Vòng luân Hồi triền miên không dứt. Tu Phật là để chấm dứt vòng Luân Hồi. Muốn chấm dứt thì phải biết điểm khởi đầuvà biết cách để kết thúc. Theo Đức THÍCH CA, chính vì VÔ MINH nên làm thành một vòng gồm 12 Nhân Duyên kết hợp với nhau. (Do Vô Minh nên Hành, sinh Danh Sắc, Danh Sắc sinh lục Nhập. Lục Nhập sinh Xúc. Xúc sinh Thọ. Thọ sinh Ái, Ái sinh Thủ, Thủ sinh Hữu. Hữu sinh Lão Tử. Mấu chốt chính là VÔ MINH. Do không sáng suốt hay Mê Lầm nên hành động làm thành một chuỗi để ràng buộc con người vào những gì mắt thấy, tai nghe, sinh ham thích, muốn sở hữu Cái Thân và làm mọi hành vi tốt hay xấu cũng chỉ để thỏa mãn Lục Căn. Cuối cùng là Già, Bệnh và Chết. Người muốn tu theo Đạo Phật để được Giải Thoát thì phải nương theo hướng dẫn của Đạo Phật để Quán Sát, Tư Duy, biết rõ về THÂN, TÂM, PHÁP. Phân biệt Giả, Chân, để bỏ GIẢ, về CHÂN hay Kinh gọi là “Phản Vọng, Quy Chân” , ngưng tạo Nghiệp, lúc đó sẽ được Giải Thoát. Muốn Giải Thoát thì phải biết điều gì đã ràng buộc. Mọi Khổ đau, ràng buộc, Sinh Tử đểu xuất phát từ Cái THÂN. Chính vì vậy người tu Phật được dạy cho quán sát Cái Thân để thấy : Từ thời xa xưa, mọi người đều cho rằng số phận của mỗi con người được đưa vào đời, phải Sống, phải chịu bao nhiêu đau khổ vùi dập là do Thượng Đế hay một vị Thần Linh tối cao nào đó quyết định, con người chỉ có thể cúng kiến, van vái để được nương tay. Vì thế mà có nhiều Tôn Giáo. Mỗi Tôn Giáo tôn thờ vị Giáo Chủ của mình để được che chở, phù hộ, cứu độ. Cho tới khi Thái Tử Sĩ Đạt Ta bỏ ra một thời gian dài để Quán Sát, Tư Duy, cuối cùng Ngài phát hiện ra là không phải Thượng Đế hay Thần Linh áp đặt cảnh sống tốt, xấu, nghèo, giàu, đẹp, xấu, thọ, yểu cho con người, mà do chính là do con người đã tự tạo ra bằng những hành vi trong kiếp vừa qua gọi là gieo NHÂN. Mà đã gieo NHÂN thì sẽ có QUẢ trả lại. NHÂN ÁC thì QUẢ ÁC. NHÂN THIỆN thì QUẢ LÀNH. Cũng chính vì có NHÂN QUẢ nên mới có LUÂN HỒI để thể hiện sự công bằng của vạn Pháp. Không có Thần Linh hay đấng tối cao nào cầm nắm vận mạng của con người, mà do mỗi người tự tạo nên không thể cầu xin bớt rủi, thêm may, mà mỗi người tự gây NHÂN để có QUẢ, do đó, Đạo Phật còn có tên là Đạo NHÂN QUẢ vì dùng Nhân Quả để giáo hóa con người ngưng tạo Ác Nghiệp để khỏi phải bị đọa. Thế nhưng, do những pháp sư nhiều thời qua đã không tuân thủ lời Phật dặn dò là chỉ những người Thấy Tánh hay Chứng Đắc mới được quyền giảng Pháp, mà họ cứ vô tu vài năm, học một số bài Phật Pháp là cứ thế mà ra giảng Pháp. Chính những người này đã biến Phật, Bồ Tát thành Thần Linh chuyên phù hộ, độ trì cho bá tánh. Biến Phật Tử thành những người chờ mong được cứu độ, không còn Tự Độ cho bản thân theo tinh thần của Đạo Phật chân chính nữa. Chỉ riêng cái Phát Tâm thì chúng ta thấy : Đa phần Phát Tâm đi tu là vì mến mộ Đức Thích Ca hoặc muốn hy sinh cuộc đời để phụng sự Ngài, không hề biết gì về Sinh Tử cũng như muốn đi tìm cách thức để Giải Thoát hay tìmThủ Phạm đã XÂY NHÀ SINH TỬ như Đức Thích Ca. Do đó làm sao có được sự Chứng Đắc hay kết quả giống như Ngài ? PHƯƠNG TIỆN mà Đức Thích Ca đã dùng để Chứng Đắc cũng thế. Từng Pháp trong Đạo Phật đều được giải thích lý do phải Hành và kết quả hành giả sẽ đạt được. Giả sử có người cũng có mục đích là đi tìm cách để Thoát Khổ, nhưng lại không biết cách áp dụng những phương tiện thì e rằng khó mà đạt được mục đích. Đơn cử như NGỒI THIỀN. Ai cũng biết Đức Thích Ca đắc Đạo là nhờ 49 ngày đêm THIỀN ĐỊNH. Nhưng Kinh sách không có giải thích Đức Thích Ca đã làm gì trong thời gian tĩnh lặng đó. Vì thế, nhiều người cũng Ngồi THIỀN, nhưng trong lúc Ngồi thì thả hồn rong chơi các cõi, thì khác chi người vào rạp hát để xem phim ? Hoặc Ngồi Thiền mà Diệt hết ý nghĩ gọi là Diệt Tận Định thì khác gì người ngủ ngồi ? Không đi tìm CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT (ĐẠO) thì làm sao GẶP CON ĐƯỜNG đó để gọi là ĐẮC ĐẠO ? Rồi giả sử có người cũng đi tìm CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT, nhưng không có Kinh sách là bản đồ của Chư Vị giác Ngộ đi trước đã cắm sắn cột móc để đối chiếu, thì người đi sau biết mình đã đi tới đâu ? Hướng đó chính xác hay chưa ? Đâu là đích đến cuối cùng ? Việc áp dụng những Hạnh của Đạo đối với người tu cũng thế. Không phải cứ Khổ Hạnh, hành Cái Thân cho nhiều là sẽ thành Đạo, mà phải biết chính xác là Phải Làm gì ? Làm như thế nào ? Trường hợp Hành Hạnh ĐẦU ĐÀ. Dù phải Hành 13 Hạnh rất là khổ cực : “Hạnh Mặc Y Phấn tảo. Chỉ mặc 3 Y. Không có Y thứ 4. Phải đi Khất Thực đế ăn và chỉ ăn mỗi ngày 1 bữa. Phải đến từng nhà để Khất Thực, không phân biệt giàu nghèo. Hạnh ngồi ăn 1 lần. Đã đứng lên thì không được ngồi xuống ăn lại. Hạnh ăn bằng bát, không nhận bát thứ 2.Hạnh không nhận đồ ăn khi đã ăn xong. Hạnh Ở trong rừng, không ở trong làng xóm. Hạnh sống bên gốc cây, không ở trong nhà. Hạnh Ở giữa trời. Chỉ ở ngoài trời, không sống trong nhà hay dưới tán cây. Hạnh ở nghĩa địa. Hạnh nghỉ chỗ nào cũng được. Hạnh ngồi không nằm. Khi ngủ cũng trong tư thế ngồi “ . Nhưng mục đích Hạnh Đầu Đà đã được giải thích rõ, chỉ là : “Trừ bỏ phiền não, trần cấu, cốt để tôi luyện thân tâm bằng cách diệt trừ lòng Tham trước đối với ba vấn đề thiết yếu của cuộc sống hàng ngày là : Cơm nước, Áo quần và chỗ ở”. Rõ ràng Hạnh Đầu Đà có tác dụng hạn chế sự đòi hỏi của Cái THân. Những liệu cái Thân chỉ cần có 3 thứ là Cơm nước, y phục và chỗ ở ? Và nó có chính là tác nhân đòi hỏi những điều đó, hay có một động lực nào ẩn sâu bên trong ? Muốn đạt Vô Thượng Bồ Đề chỉ cần làm chừng đó là đủ hay còn phải làm thêm Hạnh nào khác ? 1/- Qua những gì đã hành trì, và lời tuyên bố khi Chứng Đắc, ta thấy Đức Thích Ca không có trở thành Thần Linh, cũng không có đắc Thần Thông hay Phép mầu, mà chỉ gặp được THỦ PHẠM ĐÃ XÂY NÊN NGÔI NHÀ SINH TỬ và phá nát dụng cụ của hắn để hắn không còn xây nhà được nữa mà thôi. 2/- Thành Phật không phải là trở thành Thần Linh. Vì thế, Phật không thể cứu độ được cho ai. ĐẠO PHẬT Ngài mở ra cũng thế. Chỉ “Độ” cho những ai muốn được Thoát Khổ bằng cách đưa ra Giáo Pháp để họ tự mình hành trì theo đó để tự Giải Thoát, gọi là TỰ ĐỘ. Như vậy, người muốn được Thoát Sinh Tử phải Phát Tâm tu hành. Nhưng không phải cứ Phát Tâm tu hành rồi bắt đầu từ đâu cũng được. Có một số căn bản mà người tu Phật nào cũng phải thực hành. Đó là VĂN-TƯ-TU, GIỚI-ĐINH-HUỆ và BÁT CHÁNH ĐẠO, tức là lúc nào cũng phải giữ đầy đủ GIỚI, đi trong BÁT CHÁNH ĐẠO, song song theo đó là VĂN, TƯ rồi mới Tu, tức là nghe Pháp hay đọc Kinh là đọc những hướng dẫn của Chư Vị Giác Ngộ đi trước, rồi tư duy để tìm ý nghĩa đúng, sau đó mới đưa vào thực hành. Sau khi NGHE PHÁP hay ĐỌC KINH gọi là VĂN thì phải Tư Duy. Tư Duy quan trọng đến nỗi Kinh ĐẠI BÁT NIẾT BÀN dạy : “Dù có người trải qua vô lượng vô số kiếp chuyên tâm thính pháp. Nhưng nếu không Tư Duy thì trọn không thể được Vô Thượng Bồ Đề”. Vậy VÔ THƯỢNG BỒ ĐỀ có nghĩa như thế nào ? BỒ ĐỀ được dịch là Tỉnh, Giác Ngộ. Đạt Vô Thượng Bồ Đề là đạt được sự Tỉnh Thức hay Giác Ngộ. Nhưng Giác Ngộ là để Biết những gì ? Đó là không phải biết trước biết sau như Thần Thông mà là Biết tất cả những gì liên quan đến CÁI THÂN và cách thức hành trì để được Giải Thoát. Kinh Lăng Nghiêm dạy : “Giải Thoát hay triền phược đồng do Sáu Căn. Được Chứng Thánh hay đọa làm phàm cũng bởi Sáu Căn chớ không có con đường nào khác” . Sáu Căn tức Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân và Ý. Từ bao đời, mọi người đều nghĩ mình chính là CÁI THÂN, và cho rằng dù lúc sống có sướng, khổ, hay làm bất cứ hành vi nào, Thiện hay Ác, thì khi Chết là kể như chấm dứt. Nhờ Đạo Phật hướng dẫn, chúng ta mới biết, cái Chết chỉ là sự kết thúc của Cái THÂN. Cái CHÂN TÁNH không có chết theo nó, và những gì mọi người đã làm trong suốt kiếp vừa qua không hề tan biến theo cái Thân, mà được lưu giữ bởi một ký ức vô hình, vô ảnh sẽ đi theo mỗi người đến một kiếp mới, gọi là Luân Hồi. Điều đó tuy không thể chứng minh, nhưng nó hiện diện trên cuộc sống mà mọi người đều có thể nhìn thấy qua sự khác biệt của từng cá nhân trong xã hội, mà chỉ có NHÂN QUẢ mới cho được lời giải thích hợp lý. Bởi tại sao có người được sinh trong giàu sang, nhung lụa. Người thì rơi vào cảnh khốn khổ. Kẻ đẹp, người xấu, kẻ thọ, người yểu, người đần độn, kẻ thông minh… không ai giống ai. Mọi người đều cho rằng “Thượng Đế công bình vô cùng” . Do đó, không thể nào có việc Thượng Đế sắp xếp để thử thách người này mà lại bất công với người khác, chỉ có thể tin rằng tất cả những sự dị biệt mà người được hưởng phúc, kẻ bị đọa đày là do kết quả của chính họ đã làm trong kiếp vừa qua mới công bằng và hợp lý, không ai có thể phản bác được. Theo đó, cái Thân mà mỗi chúng ta đang sở hữu cũng chỉ là cái THÂN NGHIỆP, ứng hiện ra đây là để TRẢ những NGHIỆP tốt hay xấu đã làm trong kiếp trước. Nếu kiếp trước làm những Thiện Nghiệp thì sẽ được Hưởng phước. Ngược lại, nếu tạo Ác Nghiệp thì sẽ bị đọa. Có THÂN là có KHỔ. Theo Phật dạy, tất cả những nỗi Khổ hay mỗi người gây tạo Nghiệp chướng là DO CHẤP CÁI THÂN NGHIỆP QUẢ, GIẢ TẠM CHO ĐÓ LÀ MÌNH. Cái Chấp này là do VÔ MINH, tức là Mê lầm hay Thiếu Sáng suốt. Chính vì cho rằng Cái THÂN TỨ ĐẠI là MÌNH nên tìm mọi cách để cung phụng cho những nhu cầu của nó. Lẽ ra, nó chỉ cần ăn đủ no, mặc đủ ấm, có mái nhà để che mưa, núp nắng là được rồi. Nhưng con người quá chiều theo sự đòi hỏi của Cái Thân rồi tìm mọi cách cung phụng cho nó đôi khi quá mức cần thiết và ngoài khả năng đến độ phải tranh giành, lừa đảo để có được những thứ yêu thích. Trong khi đó, nó không phải là THẬT MÌNH (CHÂN NGÃ). Do đó, người tu cần tìm cho được CÁI BỔN THỂ TÂM hay CHÂN TÁNH. Đó mới là CHÂN NGÃ. Tìm được cái CHÂN NGÃ rồi thì sẽ không còn CHẤP cái THÂN hư dối để tiếp tục làm nô lệ cho nó, mà lấy lại quyền làm Chủ, bắt nó phải theo ý mình, lo tu hành và không còn TẠO NGHIỆP để tiếp tục trôi lăn trong SINH TỬ LUÂN HỒI nữa. Không phải chỉ cần nghe giảng hay đọc Kinh rồi chấp nhận lý lẽ của Phật hay Kinh sách là đủ. Vì đó là kết quả Quán Sát, Tư Duy của người đi trước. Chúng ta cần phải Tư Duy để có cái hiểu cho bản thân về những điều cần hiểu, cần hành trên con đường tu hành. Tư duy là suy nghĩ, tìm hiểu, khảo sát cho kỹ trước khi bắt tay vào thực hành hay thực hiệ

Thứ Bảy, 14 tháng 9, 2024

NHỚ VỀ ĐÊM THƠ NÚI NHẠN _ LÊ HÀO

❤️Yêu một Nhà thơ đã là khó? Huống chi Nhà thơ ấy vừa mông lung, vừa tàn tạ💧 🌿NHỚ VỀ ĐÊM THƠ NÚI NHẠN Nhìn qua cửa Đà Diễn, nhìn về sông Đà Rằng tìm lại một giọng ngân từ buổi trăng rơi nghiêng nghiêng mặt sóng Âm vực tận ngày xưa ? bâng khuâng đàn bầu, đàn tranh và tiếng sáo từ mênh mông đời em vọng mãi lời em làm mái chèo để thơ anh xuôi vào ngọn suối của mùa xuân ... núi Nhạn thắp lên triệu ánh nhìn đăm đăm một đêm mơ nguyên tiêu màu rêu phong cựa mình trên những viên gạch ngàn năm tháp cổ Chợt lá vàng rơi chạm vào giọng em buông lơi xao động giọt sương lăn đằm đằm thơ anh ướt đẫm ánh đèn rưng rưng, lay lay gợn sóng sông Chùa Gặp vầng trăng trong nhau, còn bao nhiêu mùa sau nữa ? trăng soi vào cuộc đời hay cuộc đời soi vào trăng ? tình mơ mộng vì thơ hay thơ mơ mộng vì tình ? Thơ ở đây mà giọng người thì ở đâu ? người lặng lẽ qua mau về bên kia chân núi (LH 27/02/2019) 🥀Tranh minh hoạ: Lê Hào

Thứ Bảy, 7 tháng 9, 2024

TRẦN LÊ ANH TUẤN: NHÀ THƠ TỰ LÀM KHÓ MÌNH _ ĐÀO ĐỨC TUẤN

Tôi may mắn đọc thơ của nhà thơ Trần Lê Anh Tuấn ngay từ những bài đăng đầu tiên, cách đây khoảng mươi năm. Và nay, 36 tuổi, anh ra tập thơ đầu tay Phố trọ (Nhà xuất bản Hội Nhà văn, tháng 8.2024) với 27 bài. Nhà thơ Trần Lê Anh Tuấn sinh năm 1988, quê quán: Xuân Lãnh, Đồng Xuân, Phú Yên, là hội viên Hội VHNT tỉnh Phú Yên, đại biểu hội nghị Những người viết văn trẻ toàn quốc lần thứ 10 năm 2022 tại Đà Nẵng Thơ không kể dày mỏng, ngắn dài, ít nhiều. Thế nhưng khách mộ điệu cũng hơi sốt ruột khi thấy anh cứ đăng đi đăng lại cũng chỉ mấy bài đếm đầu ngón tay. Hóa ra anh cẩn trọng, nghĩ nhiều viết chắt lọc, tự làm khó mình trước hàng ngũ làm thơ ngày càng trùng điệp. Thơ Trần Lê Anh Tuấn kiệm lời. Ví như, anh thả bút thể 4 chữ: Đỏ đêm trôi mãi Dòng thuở xưa xanh Tưởng tượng chẳng thể Khép những chòng chành (Sông Ba) Một góc nhìn định vị về một nghề – người: Ông luồn sợi chỉ qua đêm Mưa bão vần vũ một thời Ông luồn sợi chỉ mỗi ngày Đường kim lầm lũi mùa đi (Người thợ may) Hầu hết trong tập đều là thơ thể tự do. Thơ của Trần Lê Anh Tuấn đứt gãy, nhảy nhịp, chất chứa, bung thả, miên man: Gió vẫn thổi trên cầu Mình lỡ nhịp ánh trăng Thị trấn trong phong thư nhỏ Anh mang theo bao nẻo mịt mù (La Hai) Góc phố nào không ủ rũ Ngôi nhà nào không chông chênh Con sóng nào không thao thức Chân trời nào không khổ đau Mà em là hải âu bay trong khí quyển anh Em hãy đến như giông tố ngoài khơi (Nơi chốn) Em kéo cao cổ áo mưa phùn Tôi cho tay vào gió bấc Những ngọn gió nhóm lửa vỉa hè Đêm rét ngọt môi xưa (Nhớ Tuy Hòa) Tôi gọi tên nhà thơ Bằng triệu ngọn sóng mất ngủ Tôi xin đặt xuống đây Một chiếc bóng cuối trời lam lũ (Mộ nhà thơ) Tập thơ “Phố trọ” của Trần Lê Anh Tuấn Với tôi, đừng hỏi tuổi nhà thơ. Tự khởi nguyên thơ đã thuộc về tuổi trẻ. Phong độ đỉnh cao của sáng tạo thơ luôn về tay tuổi trẻ, tuổi sung mãn đời người. Bởi gốc của thơ là cảm xúc, là trào dâng, là phi thường. Mà phi thường chỉ có ở tuổi trẻ. Thử điểm qua ngút ngàn thi sĩ, mấy ai tạo được thơ hay khi về già, ít nhất là so với chính họ. Lịch sử thi ca cũng ghi nhận: những tập thơ đầu tay thường là đỉnh cao sự nghiệp của các nhà thơ. ĐÀO ĐỨC TUẤN :

Thứ Sáu, 6 tháng 9, 2024

NGUYÊN CẨN SAU NGHÌN DẶM PHONG TRẦN _ TÂM NHIÊN

NGUYÊN CẨN SAU NGHÌN DẶM PHONG TRẦN Từ bao giờ đến bây giờ, dòng nhân sinh trường mộng vẫn âm thầm chảy trôi giữa đôi bờ sống chết, có không, mộng thực… Dẫu vẫn biết vô thường đang diễn bày ngay trên từng bước đi của ngày tháng với những bất an rình rập, những oan khiên nghiệt ngã, những khủng bố dã man…đang diễn ra khắp nơi mọi miền trên toàn thế giới. Tuy nhiên, tất cả mọi cuồng phong, bão tố, mọi tai ương, thảm họa khủng khiếp kia cũng không thể nào dập tắt được ngọn lửa thiêng trong trái tim người, không thể nào hủy diệt được ý chí sáng tạo của con người, nhất là của những thiền sư, nghệ sỹ, thi nhân mà trái lại, chính ở ngay trong những cơn lốc bể dâu nọ, đã khích động họ lên đường, vượt qua và vượt qua những gian nan đoạn trường, những chướng ngại, thử thách của tồn sinh khốc liệt đầy bức bách. Trong số những nghệ sỹ, thi nhân đích thực đó có Nguyên Cẩn, một nhà thơ thuần nhiên, chơn chất, đã cất lên tiếng hát vô úy, bay trên cảnh giới mịt mù cát bụi phủ nắng mưa. Giữa phong trần cuộc lữ, Nguyên Cẩn vừa đi vừa ngắm nhìn, lắng nghe và dĩ nhiên là viết, viết liên tục không ngừng. Bút lực vững chắc, bền bỉ, sâu sắc, lặng đi vào giữa lòng đời, khơi dậy niềm yêu thương, đánh thức lương tri nhân loại một cách tự nhiên, truyền cảm lạ thường. Tư tưởng thương yêu, bao dung, buông xả, phóng khoáng ấy, thể hiện qua các tác phẩm thơ văn đã xuất bản: Gởi lại đôi dòng, Bụi phấn một đời, Cuối đường mây trắng, Gánh tình qua sông, Nhìn sâu trong mắt, Viết từ buồng phổi trắng, Ngồi đợi gió sang canh, Sầu rụng thành hoa, Đối thoại với hư không, Cung trời hội cũ, Thơ Nguyên Cẩn, Cà phê không đường (2 tập) Bóng chữ trước đèn, Sân không dấy bụi và hàng trăm bài viết xã luận đã đăng trên tạp chí Văn Hóa Phật Giáo… Chào đời năm 1956 tại Sài Gòn.Tốt nghiệp Đại học Sư phạm năm 1978, đi dạy học ở Nha Trang một thời gian. Sau đó, hoàn thành Tiến sỹ Kinh tế học, giảng dạy các trường Đại học về khoa Kinh tế, Ngân hàng. Rồi lui về nghỉ ngơi, hàm dưỡng trong những trầm tư sâu xa, vắng lặng... Đặc biệt, Nguyên Cẩn chuyên tâm nghiên cứu Phật học đến độ thâm sâu, biết đem ứng dụng một cách hài hòa, sinh động vào cuộc sống hằng ngày. Tuy say mê viết nhiều thể loại tản văn, bút ký, lý luận văn học, thời sự, nhưng thi ca vẫn là điều tâm huyết, quyến rũ thi nhân dấn bước trong cô đơn lặng lẽ, như cưu mang một nỗi niềm chi ẩn mật mà đi khắp nẻo ta bà, rong ruổi mộng viễn phương: Đường đi chưa đến tận cùng Tìm nhau trong cõi mịt mùng nhân gian Đời ngân chưa trọn cung đàn Đã buông lỡ nhịp dở dang đợi người Chính vì sự dở dang chưa viên mãn ấy mà cuộc lữ rong rêu theo gót mộng phiêu lưu tận cuối đất cùng trời, giáp mặt với cõi người ta. Từ phồn hoa, phố thị đến những làng thôn, hoang dã chơi vơi: Cuối sông cuối biển cuối trời Cuối cùng của những bời bời rối răm Tình người bọt nước mù tăm Rừng U Minh vẫn trăm năm u hoài Biển xa sóng vỗ dạc dài Tuổi thơ mặn chát trong ngoài ước mơ Mơ ước muôn chiều, phiêu bồng hết mọi vùng biển rộng sông dài, rồi ngao du lên tận cao nguyên, những xứ miền núi cao, bạt ngàn rừng sâu rú thẳm, mây trắng và sương mù trùng trùng điệp điệp, vừa đi vừa lắng nghe bao nỗi đời rơi xuống, buồn bã, xót xa: Ngả lưng trên đồi nghe chim hót Chén buồn nghiêng ánh giọt chiều rơi Tìm quên trong cõi đời vô vọng Vò rượu tình cay đã cạn rồi Ngả lưng trên cao nhìn xuống thấp Người người tất bật địu ngày đi Gian nan nặng gánh vai gầy trĩu Cõng suốt trăm năm để lại gì? Thi sỹ ngậm ngùi ôm nỗi sầu thế sự lên núi như Cao Bá Quát, Tản Đà ngày xưa uống rượu tiêu sầu. Rượu tình, rượu nghĩa, rượu ngọt bùi lẫn cay đắng đều dốc cạn một lần cho tiêu tan hết những niềm đau thân phận kiếp người. Ơi một kiếp phù du, huyễn hóa chớ có gì quan trọng lắm đâu? “Trăm năm còn có gì đâu? Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì.” Phải vậy không, hỡi bậc tiền bối Nguyễn Gia Thiều? Chiều hoang vu đứng trên đồi cao, khói sương bảng lảng, nhìn xuống cõi đời bé nhỏ, lô nhô, lúc nhúc những sinh linh đang quằn quại, đấu tranh, giành giật mảnh danh vọng, chìm đắm trong đám bùn lầy, vật chất dưới kia mà thi nhân trầm tư, chạnh lòng trắc ẩn, thốt lên từng lời thơ ngụ ý như nhắc nhở chân thành: Người ơi! Hãy giữ lòng trinh bạch Cho cõi thơ thanh quý một đời Tình vẫn ngời thơm manh áo rách Máu còn thắm sạch trái tim côi Người ơi! Hãy giữ lòng ngây dại Cho ý thơ bay vút tận trời Cho nụ cười vui luôn ở lại Dẫu ngàn cay đắng đọng sau môi Người ơi! Hãy giữ lời như ngọc Tạc đá hồn thơ dẫu đoạn trường Cho kẻ tìm thơ không phải khóc Lệ buồn “vô mệnh thị văn chương” Thi nhân trải lòng ra mà tâm sự như thế, thể hiện một phong thái bao dung rộng lượng, muốn cùng chia sẻ với mọi người mọi kẻ, khắp chốn nơi nơi, nhất là với những nhà thơ, văn nghệ sỹ, những tâm hồn bẩm sinh nhạy cảm. Hãy biết tự trọng, giữ gìn sự thanh bạch, cao quý, dù có bị áp bức đọa đày, điêu linh, khổ lụy đi chăng nữa, thì cũng không bao giờ run sợ, hèn hạ làm kẻ nô lệ, bẻ cong ngòi bút, uốn lưỡi đi ca ngợi những thế lực vô minh… Hãy cứ để tự nhiên cho trái tim ngây thơ rung động, nhẹ mỉm cười theo hồn thơ bay vút lên tận thiên thanh vĩnh thúy, trên con đường thênh thang sáng tạo, hướng về Chân thiện mỹ ngay trong trái tim mình. Chính từ nhãn quan thoáng đạt, bao la đó, thi nhân dấn thân vào cuộc sống, bằng thái độ chân tình cởi mở, thở cùng không khí thi ca thuần chất, rất mực chan hòa: Người từ ánh sáng đi ra Tôi từ trong mẹ và cha đi vào Trần gian kính cẩn xin chào Trang nghiêm cười khóc lao xao mọc mời Sóng xô chuyện của một thời Nước trôi chuyện của một đời phù vân Cái thân trang trải nợ nần Chiêm bao kết tụ trắng ngần thành sương Tử sinh chỉ một con đường Uy nghi lá rụng vô thường mộng rơi Mai về nếu chẳng còn tôi Cầm như cánh nhạn bóng phơi sông dài Chơi giữa vô thường là một cuộc chơi hòa điệu với sinh tử cùng chiêm bao ảo mộng, hư huyễn phù vân. Chuyện mất hay còn như cánh nhạn qua sông. Thế thì còn chi ly kỳ, gay cấn hơn nữa, phải không? Bồng tênh trên thể điệu tùy nghi, thi sỹ bước đi phiêu nhiên giữa vạn pháp chập chùng. Rồi một hôm thư thả, bình yên ngồi lại một mình thiền định, tịch nhiên quán chiếu vạn pháp suốt từ nghìn xưa cho tới nghìn sau: Tôi ngồi tựa pháp nghe mưa Giọt sau chen giữa giọt xưa chan hòa Tôi ngồi tựa pháp xem hoa Cánh là diệu hữu nhụy là chơn không Tôi ngồi tựa pháp qua sông Đò nghiêng sóng động mà lòng thản nhiên Tôi ngồi ngắm bóng mây thiền Bến xưa trời cũ muộn phiền nước trôi Tôi ngồi một cõi rong chơi Ghế không chiều lạnh quán đời rỗng tênh Rỗng lặng, rỗng rang khi quán tưởng thấy suốt ba đời, sáu cõi, mười phương trùng trùng pháp giới Hoa Nghiêm đều nằm gọn trong một tâm niệm vi diệu, vi tế của mình đây thôi, nên triệt đế dốc hết lòng dạ ra sống mãnh liệt và mãnh liệt hơn nữa. Sống một lần Tự do đầu tiên và cuối cùng như đạo sư Krishnamurti hay sống Tâm tình hiến dâng như thi hào Tagore hoặc sống thơ mộng, hồng hào như đóa hoa sen giữa bùn lầy uế trược bụi phù sinh: Đóa sen soi lại bóng mình Giữ lòng trong giữa nhục vinh cõi trần Bùn danh lợi níu bao lần Biển tâm sóng dậy xoay vần gió sương Chân đi không lấm bụi đường Hồn thơ giũ sạch đoạn trường bước qua Thật là độc đáo, khi hồn thơ giũ sạch hết cặn bã lợi danh, thành hay bại, vinh với nhục cũng rơi lả tả dưới dặm dài gót lữ phong trần.“Chân đi không lấm bụi đường” là bước đi không dính mắc, chẳng vướng kẹt vào được và mất, khen và chê, sướng và khổ, tài với sắc, danh thơm và tiếng xấu giữa trần gian cát bụi mịt mù. Giũ sạch mọi đa đoan, đoạn trường nhân thế, bước qua vô thường, dâu bể một cách thanh thản an nhiên, tương nhượng hòa hài: Nước từ vô tận trùng lai Hóa thân ghềnh thác vẫn mài miệt tuôn Tôi từ giọt máu cỗi nguồn Nỗi đau phát sáng ánh buồn thành thơ Chính từ trong bao khổ lụy, bi thương, từng uống cạn bao dòng máu lệ tồn sinh đó mà tấm lòng thi nhân đồng cảm tiêu hóa, tiêu dung giọt lệ và nụ cười, khổ đau và hạnh phúc...để rồi rung ngân lên thành tiếng thơ tha thiết, nồng nàn. Đối với chàng, thơ là phím đàn ngoạn mục, là cung bậc xuất thần nhập diệu yêu thương, là nhiệm mầu sâu kín và nhẹ vời tương ưng, trong từng hơi thở: Bao giờ cho đến bao giờ Thơ rung lại nhé phím tơ hồn người Để thơ chẳng phải về trời Để người sống lại với đời yêu nhau Hãy yêu thương nhau đi, vì chỉ có tình thương mới đem lại hòa bình cho nhân loại. Hãy phát động một cuộc cách mạng tâm thức, một cuộc chuyển hóa tâm linh, bằng hết sức sự tinh thành, mạnh mẽ nhất. Lên đường khám phá chính mình, không phải là chạy khắp đông tây, khắp nam bắc để tìm kiếm mà ngay dưới gót chân, ngay giữa lòng sâu thẳm của chính mình đây thôi. Từ đó, phát hiện ra một phương trời bát ngát của tự tâm, tự tánh, huy hoàng tráng lệ: Bốn phương sông núi yên bề Một phương ta mở lối về Chân như Rỗng rang là cõi thái hư Là trong trắng mộng vô dư Niết bàn Niết bàn hay Chân như là những khái niệm chỉ cái bản tâm thanh tịnh, sáng suốt của mỗi người trong tất cả chúng ta, vốn sẵn có từ vô thủy đến vô chung. Chỉ cần mình tỉnh thức, trực thấy, nhận ra bây giờ ở ngay trước mắt, sống thực sự với bản tâm đó thì thong dong, thõng tay vào phố chợ ta bà, tha hồ dạo chơi tự do tự tại, qua lại, ra vào vô sự giữa muôn chiều diệu dụng Như Như. Giữa ngày tháng đi hoang, chàng thi sỹ Nguyên Cẩn bất ngờ cùng đồng thanh tương ứng với thi hào Vương Duy, trên nhịp bước trở về cửa Phật, cửa Không lồng lộng thâm trầm: “Ở đời bao chuyện thương tâm Không về cửa Phật biết làm sao khuây?” Thật vậy, đã từng thấy nghe, chứng kiến biết bao nhiêu chuyện đời thống khổ thương tâm. Trầm tư khắc khoải, quay quắt đủ thứ quằn quại ưu phiền, nhiêu khê, tế toái, rồi hốt nhiên, chàng liền chuyển hóa, tạo một bước nhảy trọng đại quay về. Trở về quê xứ nội tâm, phấn chấn, rộn rã quy hồi cố quận, trên tinh thần trân trọng từng giây phút tân kỳ mới lạ. Thưởng thức được hương vị tâm thiền uyên mặc, phảng phất tận đáy lòng sâu xa và hòa chan vào với thực tại đang là: Đã đi mòn một khoảng trời Đường mây cánh mỏi mà đời chửa yên Đêm đêm lắng đọng ưu phiền Chắt chiu một giọt hương thiền tĩnh tâm Nhân gian quay quắt bụi lầm Bão từ mê vọng mạch ngầm sóng xô Mai này trùng ngộ hư vô? Thì xin trân trọng phút giờ hiện sinh Hiện sinh, hiện tại, hiện hữu là sống trọn vẹn với thực tại hiện tiền. Tuyệt nhiên không hối tiếc những gì đã qua trong dĩ vãng, quá khứ, chẳng mơ màng, mong ước, vọng cầu chi tới tương lai, mai mốt xa xôi. Giống như thi sỹ Thụy Điển Tomas Transtromer vừa được giải Nobel văn chương năm 2011 tâm sự: “Gần đây, những suy niệm về tôn giáo nảy sinh trong tôi lúc này lúc khác, khiến tôi nhận ra ý nghĩa có mặt trong phút giây hiện tại, trong việc nương vào thực tại, cảm nghiệm nó và sáng tạo nên một điều gì đấy về nó…” Nhà thơ Nguyên Cẩn cũng vậy, cũng thể điệu chịu chơi, nhập cuộc rốt ráo vào hiện sinh, vào cái bây giờ và ở đây, ngay trong từng một niệm tưởng sát na: Niệm tôi một niệm thở ra Buồn xưa như khói thoảng qua mặt hồ Niệm tôi bất tận nam mô Phật từ tâm hiện mây mờ vụt tan Nụ cười sau những tân toan Trời giông bão tạnh sóng tràn ý thơ Niệm tôi thuyền tách bến mờ Nghiệp duyên giũ sạch sang bờ ngoái trông Niệm tôi vô xứ vô tông Quê là huyễn hữu không không là nhà Niệm tôi một niệm vào ra Quán trăm năm một sát na ra vào Một khi khám phá ra quê nhà chính là Tâm Không, Tánh Không, biết mình “không từ đâu đến cũng chẳng đi về đâu” thì an trú vào ngay cái đang là, cái bây giờ và ở đây. Thế là thi nhân đã thấy ra giữa ngút ngàn sương khói, lãng đãng phù vân, chính tâm mình là Phật, chính lòng mình là đạo nên không còn thắc mắc, tự hỏi đạo là gì, tâm là chi như thuở nọ, ngày xưa nữa. Một khi những trăn trở, trằn trọc buông xuống nhẹ nhàng, vắng lặng mọi hướng ngoại tầm cầu thì tự nhiên hiển lộ cố xứ Như Lai, ngay trong lòng thanh tịnh của chính mình, thi nhân liền vội quỳ xuống dưới chân Đức Phật giữa đêm giao thừa linh diệu siêu nhiên: Con khấu đầu xin thôi ước nguyện Khi hiểu mai về một cõi Không Bừng lên một sát na vô niệm Con thấy Như Lai hiện giữa lòng Ơi chao! Gặp Thế Tôn trong tâm hồn mình rồi, thấy Đức Phật đưa cành hoa lên và nhà thơ mỉm cười, niêm hoa vi tiếu, chợt “bừng lên một sát na vô niệm” phi thường như thế, quả thật là một niềm vui cực kỳ hy hữu, tưởng chừng như nhập vào cảnh giới đương xứ tức chân. Vô niệm là một pháp môn độc đáo của Lục Tổ Huệ Năng, như Lục Tổ từng phát biểu: “Nếu thấy hết thảy pháp mà tâm không ô nhiễm cũng không vướng mắc, ấy gọi là Vô niệm. Hoạt dụng hết thảy chỗ mà chẳng mắc vướng chỗ nào, chỉ cần thanh tịnh bản tâm để cho sáu thức ra vào sáu căn, đối với sáu trần không nhiễm, không dính, đến đi tự do, ứng dụng vô ngại, tức là Bát Nhã tam muội, tự tại giải thoát, gọi là hạnh Vô niệm.” Như vậy, vô niệm cũng là vô tâm, vô sự, vô vi. Thi nhân dù chỉ mới bừng thấy một thoáng thôi cũng đủ sức mạnh tinh thần vô úy, không hề sợ bị vướng nhiễm, chìm đắm trong vô minh, ngũ dục, nên vẫn tiếp tục thung dung giữa phù hoa phố bụi. Cúi lạy dâu biển vô thường, tri ân đất trời cùng với sinh tử trầm thăng, bằng cách trì tụng thần chú Đại bi trong âm thầm miên mật: Tình thâm nghĩa trọng ân cần Biển dâu lạy tạ một lần ra đi Mai về tụng khúc Đại bi Nửa đêm hoa rụng tức thì khai tâm Khai tâm là một trạng thái mở bừng mắt tuệ giác rực ngời tỏ sáng. Thấy tất cả mọi hiện tượng của toàn thể vũ trụ, nhân sinh đều từ tự tánh Không biểu hiện mà ra cả, chứ chẳng có thực chất riêng biệt gì. Đi vào mọi cảnh giới trần gian muôn màu muôn vẻ mà vẫn vô quái ngại, không dính mắc, chẳng bị ràng buộc vào đâu hết, không bị trói cột vào bất cứ sự việc gì gì giữa chốn trần ai. Phải chăng, trên muôn chiều phiêu lãng giữa nghìn trùng bạt mạng, lênh đênh trong đêm dài sinh tử, qua những trầm tư, kiếm tìm đến tuyệt lộ, hụt hẫng, chới với...rồi bất thần bùng vỡ, vất bỏ, buông xuống, trút hết mọi vọng tưởng mê lầm, quét sạch cuồng si, ám chướng quỷ ma và ngồi lại tịch nhiên lặng lẽ. Lắng nghe từng điệu thở nhẹ nhõm vô tư, tự nhiên quên hết nỗi sầu vạn đại, quên luôn cái ngã chấp âm thầm, quên ta, quên người, quên đời, quên đạo, quên ngộ, quên mê...thì kỳ diệu thay, bất ngờ chợt thấy rộ bừng ra một đóa hoa sen, một nụ hoa lòng Mạn đà la ngào ngạt, ngát hương đời long lanh, lấp lánh tuyệt vời: Tôi ngồi bờ bãi lênh đênh Hồn thơ nặng nghiệp nghe kinh lại về Tôi ngồi tựa pháp tìm quê Đã lâu lầm lạc lối mê man tình Tôi ngồi quên bóng quên hình Quên kinh quên kệ quên mình quên ta Tôi ngồi sầu rụng thành Hoa Tịnh liên chớm nở Mạn đà la rơi Thế là trên cuộc lữ phong trần, nhà thơ Nguyên Cẩn, bằng sự chí thành chân thiết đã chuyển hóa những khối sầu vạn cổ, những ngậm ngùi thế sự, bèo bọt mong manh thành một đóa sen lòng thanh thoát ngát hương. Hương vị thi ca lồng lộng giữa ngày tháng tang bồng, giống như Thiền sư Nhất Hạnh cũng thường hay nói hoài như một điệp khúc, khắp đó cùng đây: “Hãy ví khổ đau như là rác rưởi và hạnh phúc như những đóa hoa tươi. Khi chúng ta biết chuyển hóa đau khổ thành phúc hạnh là chúng ta biết cách biến rác rưởi trở thành hoa rồi vậy.” Thấy như thế và thực hiện được như vậy giữa cuộc đời là một việc làm hy hữu, hiếm hoi, phải không Nguyên Cẩn? Thi nhân hân hoan đi về thế giới nội tâm thâm hậu, thấu suốt xưa sau, nhẹ nhàng hát nghêu ngao những tình khúc Trịnh Công Sơn, rộn rã ngâm nga những vần thơ Bùi Giáng, Phạm Công Thiện… Nguyên Cẩn có giọng đọc thơ rất truyền cảm như mới hôm nào, tôi đã lắng lòng nghe thi sỹ đọc tại nhà Vũ Hùng ở Tân Phú, Sài Gòn. Một đêm thơ nhạc tràn lan, kéo dài đến tận 12 giờ khuya… Bữa đó, có Triều Nguyên, Nguyễn Nhứt, Lê Đình Bích, Đoàn Sỹ Toàn tham dự nữa. Giữa khuya ấy, trong cơn cao hứng, xuất thần, tôi đọc tặng Nguyên Cẩn bài thơ Vẫn một chốn về này: Cuộc lữ đó kể từ đâu chẳng biết Phương trời xa cõi tư tưởng sương nhòa Thả bay ý thức rơi ngôn ngữ Bỏ buông rồi nhẹ nhõm bước thi ca Xả chấp thật nọ này còn vướng mắc Chẳng phân bua tranh cải chỉ vâng ừ Sầu rụng thành hoa* hòa hài bước Khắp trăm miền theo thể điệu Như như Chiều phiêu lãng dừng chân bên quán Rượu tình thơ dăm ba cốc ven đường Muôn trùng vạn ngã qua chưa hết Nên chốn nào cũng về nẻo yêu thương Tâm Nhiên

BÀI MỚI ĐẮNG

Truyện ngắn: BÊN CÁNH GÀ CHÁNH ĐIỆN _ NGUYỄN HẢI ĐĂNG

Bên cánh gà chánh điện phần 1 BÊN CÁNH GÀ CHÁNH ĐIỆN Xe dừng lại với tiếng xột xoạt trên mặt đường, như bao chuyến xe đã ghé qua từ thuở ...