Thứ Sáu, 15 tháng 12, 2023

VIẾT TRÊN CẦU MỚI _HỒ THANH NGÂN

VIẾT TRÊN CẦU MỚI Cầu đã xây xong niềm vui mơ ước Các em tha thướt qua cầu Hai mươi năm bụi phấn bám đầy tay Nhìn mây trắng giữa sân trường Cầu đã xây xong niềm vui mơ ước Những chuyến phà ký ức ngày qua Sao viên mãn vầng trăng mười sáu? Những yêu thương hò hẹn buổi ban đầu! S đ 16/12/2023

Thứ Ba, 5 tháng 12, 2023

TỰ THÁN VỀ CUỘC ĐỜI -PHẠM NGỌC THÁI

TỰ THÁN VỀ CUỘC ĐỜI PHẠM NGỌC THÁI Mình bây giờ ngày ngày sống vật vã, yếu ớt trong bệnh tật. Đã lâu không vào được facebook, cũng không vào nhà ai để thăm hỏi được. Chỉ an ủi mình rằng: Ta đã trở thành bất tử !!! Tên tuổi sẽ mãi mãi vĩnh cửu với chân dung một nhà thơ lớn. Với 15 bài thơ tình hàng đầu hay kiệt xuất như dưới đây, sao có thể mất được !? Mở link sau xem "15 BÀI THƠ TÌNH HAY BẤT TỬ CỦA PHẠM NGỌC THÁI" Đã đăng trên số trang mạng: https://tranmygiong.blogspot.com/2023/10/15-bai-tho-tinh-hay-nhat-cua-pham-ngoc.html?fbclid=IwAR26sw1bNJwnO7e9w-kp-M96TyGWrkCi83v_FLYsxymfISxZ_K_YZNB55R8 Ảnh giới thiệu thi tập “THƠ TÌNH HAY KIỆT XUẤT THẾ GIAN” của Phạm Ngọc Thái đã được đăng trong: Tạp chí “THĂNG LONG VĂN VIỆT” của HNVVN ( Báo tết năm Quý Mão * Tháng 1.2023 ) - Do chính Chủ tịch Hội nhà văn Nguyễn Quang Thiều làm Tổng biên tập. https://phudoanlagi.blogspot.com/2023/02/gioi-thieu-thi-tap-tho-tinh-hay-kiet.html Xưa tới nay có biết bao bậc thi nhân lớn, như: Hàn Mặc Tử - Nguyễn Khuyến - Tú Xương - Hồ Xuân Hương - Kể cả Đại thi hào Nguyễn Du... cuộc đời có được sống trọn vẹn sung sướng đâu? Nhưng danh tiếng mãi mãi vẫn được đời ngưỡng vọng !!!! Nào phải riêng ta. Âu rằng, "cõi người" cũng chỉ là cõi tạm. Sướng khổ rồi cũng ra cát bụi. Nhờ có thi ca, ta đã làm nên tên tuổi để mai đây lưu danh đến trường thiên bất tử !!! Đó là hạnh phúc lớn trên đời mà thượng đế đã cho. Một đời phong trần, ta đã làm nên cả một kỳ tích hơn chán vạn những nhà thơ: Dẫu viết cả nghìn bài, xuất bản in hàng chục tập? Nhưng Chết tất cả là hết! Đời rồi quên lãng... thơ ca thành bụi cả - Nghĩ vậy, lấy đó làm nguồn vui lớn. Về già có phải chịu cảnh vật vã, buồn đau? Cũng là lẽ thường, có gì phải oán thán. TA SẼ MÃI MÃI SỐNG GIỮA NHÂN GIAN VÀ TỔ QUỐC! LƯU DANH TÊN TUỔI MỘT THI NHÂN KỲ VĨ CỦA NƯỚC NON NÀY. Chẳng lẽ cuộc đời như thế không đáng giá hay sao?

Chủ Nhật, 19 tháng 11, 2023

XIN TẠ LỖI CÙNG THẦY - THẠCH ĐÀ

BÀI THƠ HỌC TRÒ NHẬN LỖI VỚI THẦY (Kính tặng thầy Liễn TGT trường THTH Banmethuot, Darlac) Con cúi đầu nhận lỗi với Thầy Bởi ngày xưa con là đứa học trò hư hỏng hư Bởi thuở đó chưa biết trời cao rộng Con vô tâm nên phải để Thầy buồn Cho đến một ngày khi con lớn khôn Bị những đòn roi của đời con mới thấu hiểu Khi con phải nghiến răng dằn lòng cam chịu Mới rõ lòng Thầy thực sự yêu thương Những ngày được sống trong học đường Được dạy dỗ để làm người hữu ích Những bài công dân Thầy dạy con không thích Mới chính là những bài học cho con biết lẽ phải trên đời Xin cảm ơn quê hương, cảm ơn đất trời Cho hôm nay Thầy khỏe mạnh an lành trở lại Để con thú nhận khi con còn trẻ dại Đã lỗi lầm Thầy xa xót đánh những đòn đau Cây thước bảng trên tay Thầy gỗ màu nâu Dẫu Thầy đánh mạnh cũng không đau như cuộc đời đã đánh Khi hiên ngang làm một người trung chính Lại nhớ lời thầy hào sảng dạy dỗ chúng con Phải như giờ con có thể còn Được nằm xuống Thầy đánh vài roi nữa Những roi này con tự mình chọn lựa Để biết là Thầy còn khỏe mạnh thật không? Ơn Thầy rộng lớn như biển Đông Ơn Thầy như Trường Sơn ngàn núi Mong Thầy được sống lâu trăm tuổi An nhiên, hạnh phúc mãi ngày sau... LÊ LÃNG DU XIN TẠ LỖI CÙNG THẦY Tình cờ vào mạng đọc bài thơ học trò nhận lỗi với thầy của nhà thơ Lê Lãng Du ĐakLăk. Lòng dâng trào cảm xúc, nhân ngày nhà giáo 20/11/2023 xin tạ lỗi cùng thầy. Con cúi đầu nhận lỗi với Thầy Bởi ngày xưa con là đứa học trò hư hỏng Trong cuộc đời đi dạy của mình, tôi nhớ đến hai đối tượng học sinh: một là học giỏi hai là quậy phá, còn học sinh bình thường theo thời gian đành lãng quên. Học sinh giỏi nhớ thầy cô ít. Học sinh hư hỏng nhớ thầy cô nhiều hơn khi ra đời. Đòn đau nhớ đời, ra đời bị quăng quật mới thấm lời thầy cô. Ngày xưa thầy cô rút gan ruột dạy bảo điều tâm huyết. Không nghe, không kinh nghiệm, không từng trải như nước chảy mây trôi, nước đổ lá khoai. Con cúi đầu nhận lỗi với Thầy Bởi ngày xưa con là đứa học trò hư hỏng Bởi thuở đó chưa biết trời cao rộng Con vô tâm nên phải để Thầy buồn Cho đến một ngày khi con lớn khôn Bị những đòn roi của đời con mới thấu hiểu Khi con phải nghiến răng dằn lòng cam chịu Mới rõ lòng Thầy thực sự yêu thương Tôi nhớ lúc tôi học đại học sư phạm Quy Nhơn. Thầy Lê Kim Chung dạy: đến môi trường mới nên im lặng năm năm. Bạn văn nghệ gọi tôi là phổi bò, Napoleon bô lô ba la. Học sinh thích thầy cô hiền. Dễ dãi với mình, thầy cô nghiêm khắc thì xalánh. Khi hiểu tình yêu của thầy cô thì đã vấp ngã trên đường đời. Những ngày được sống trong học đường Được dạy dỗ để làm người hữu ích Những bài công dân Thầy dạy con không thích Mới chính là những bài học cho con biết lẽ phải trên đời Hồi đi dạy mình coi học sinh như con mình. Mình biết gì mình dạy hết mọi lĩnh vực. Mỗi ngày đến trường là một ngày vui. Trường học thánh thiện hơn trường đời. Tình bạn đẹp nhất là tình bạn phổ thông. Xin cảm ơn quê hương, cảm ơn đất trời Cho hôm nay Thầy khỏe mạnh an lành trở lại Để con thú nhận khi con còn trẻ dại Đã lỗi lầm Thầy xa xót đánh những đòn đau Từng trải đời thì mình đã lớn.Thầy cô đã già. Biết thương cha mẹ, cha mẹ đã già. Biết thương thầy cô, thì thầy cô lớn tuổi,gần đất xa trời. Cây thước bảng trên tay Thầy gỗ màu nâu Dẫu Thầy đánh mạnh cũng không đau như cuộc đời đã đánh Khi hiên ngang làm một người trung chính Lại nhớ lời thầy hào sảng dạy dỗ chúng con Trường học thánh thiện hơn trường đời. Làm bài tập sai thì sửa chữa. Trường đời sai lầm là xong một cuộc đời. Phải như giờ con có thể còn Được nằm xuống Thầy đánh vài roi nữa Những roi này con tự mình chọn lựa Để biết là Thầy còn khỏe mạnh thật không? Thương thầy thì thầy đã già. Muộn còn hơn là không bao giờ?! Ơn Thầy rộng lớn như biển Đông Ơn Thầy như Trường Sơn ngàn núi Mong Thầy được sống lâu trăm tuổi An nhiên, hạnh phúc mãi ngày sau... Bài thơ học trò nhận lỗi với thầy của nhà thơ Lê Lãng Du chân thành tình cảm, dung dị tâm hồn, đồng cảm với nỗi niềm của nhà thơ khi nhớ về thầy giáo cũ. 19/11/2023 Thạch Đà (Hồ Thanh Ngân) Nguyên GV trường trung học phổ thông Sông Đốc

THẦY TÁM- THẦY KHAI TÂM -THẠCH ĐÀ

THẦY TÁM- THẦY KHAI TÂM Tôi ở Nha Trang về.Ba má gởi về cho nội chăm sóc. Nhà nội ở trong một con hẻm nhỏ , của một thị xã nhỏ. Nhà nội là một vùng trũng lớn của thị xã. Do ở lâu năm nên bồi đắp dần dần thành nhà ở. Tuy vậy mỗi một mùa mưa nước cứ ngập vào nhà hoài. Vì vậy ông bà nội nâng nền hoài. Mỗi năm mực nước sông mỗi lớn.Vì vậy nhà cứ ngập hoài. Ở được hai năm , nội dắt tôi đi học . Hồi đó không có trường mẫu giáo. Ở xóm, chỉ có một ông thầy giáo làng. Nhà ông có khu đất rộng lớn , trồng nhiều cây ăn trái và hoa. Đó là điều tôi ấn tượng nhất.Nội dắt tôi đi học. Vừa ra khỏi nhà ,tôi vừa đi vừa khóc.Nội dắt tôi đến lớp .Tôi vào học. Nội vừa về đến nhà.Tôi cũng chạy về theo. Nội lại dắt tôi đến lớp.Nhiều ngày như vậy , sự việc vẫn tiếp diễn như thế. Vậy mà nhờ những ngày như vậy, sau này tôi rất thích học.Tôi chăm chú học và về nhà đọc báo cho nội nghe.Hầu như ấn tượng nhất đối với tôi, là nhà thầy trồng rất nhiều loại cây ăn trái. Thầy già nhưng khỏe mạnh to con. Thầy Tám có phong vị của môt cụ đồ xưa. Trường học là một phòng tường rất rộng lớn. Hầu như con nít cả phường thời đó đều học thầy. Thầy Tám dạy chúng tôi học đánh vần. Trên bàn thầy có một cây thước gỗ to đùng. Thầy đánh nhịp trên bảng cho chúng tôi tập đọc. Mỗi lần thư giãn , lũ trẻ chúng tôi chạy ra vườn thầy, hái những trái cây vừa tầm với. Những trái trên cao chỉ ước ao và thèm. Tôi đi học có nhiều thầy cô giáo để lại ấn tượng cho mình, như cô Hiệp, thầy Trung, có những thầy cô chẳng để lại ấn tượng gì, như là nghĩa vụ như là bổn phận. Riêng thầy Tám- một thầy giáo vỡ lòng, dạy tôi học khai tâm, đến giờ tôi vẫn còn nhớ mãi. Để giữ mãi một chút tình với đất quê. Thạch Đà

Thứ Sáu, 17 tháng 11, 2023

ĐƯA CON ĐẾN TRƯỚC CỔNG TRƯỜNG -HỒ THANH NGÂN

ĐƯA CON ĐẾN TRƯỚC CỔNG TRƯỜNG Đưa con đến trước cổng trường Lớp cha xã hội nhường đường con vô Lớp con lớp của thầy cô Lớp cha xã hội sóng xô mạn thuyền Thời này thời của kim tiền Cha mang thi phú lạc miền hư vô Thời này thời của áo cơm Hóa công chữ nghĩa cỏ rờn ước mơ Con mang tri thức trở về Giúp con đến được bến bờ tương lai Con vô cửa lớp học bài Cha ngoài cửa lớp ngã dài bóng con THẠCH ĐÀ (Cà Mau)

THƠ PHẠM NGỌC THÁI

 


 

                         6 TUYỆT PHẨM THI CA HÀNG ĐẦU
                                  CỦA PHẠM NGỌC THÁI
                 * Trích trong Thi tuyển gồm 171 bài: “15 BÀI THƠ TÌNH HAY XUẤT SẮC với 156 BÀI HAY VỪA & ĐẶC SẮC ”. 

                                                                                                             TUYẾT NGA   
                                                                                           GV Trường ĐH Khoa học Xã hội Nhân văn
                                                                                                                    (giới thiệu)
image.png

       Mời các văn, thi sỹ cùng những nhà lý luận, phê bình văn học... muốn nghiên cứu về chân dung THI NHÂN LỚN Phạm ngọc Thái !? Hãy đọc “Thi tuyển” có đầy đủ 171 bài thơ đó của thi nhân.
       Đăng trong Web. Việt Nam Thư Quán ( vnthuquan.net) ở Mỹ, mở link sau:
                  http://diendan.vnthuquan.net/tm.aspx?m=912639
 
                                                 Ở đây Tuyết Nga chỉ xin giới thiệu và đôi lời phân tích về:
                                                              SÁU TUYỆT PHẨM THI CA HÀNG ĐẦU PHẠM NGỌC THÁI

                                                                        image.png    

 Nhà giáo Nguyễn Thị Hoàng – Nguyên GV Trường ĐH Sư phạm, từng nhận định:
        “... Thơ hay bậc nhất của ngàn năm Thăng Long phải là loại thơ có khả năng sống trường cửu tháng năm, tồn tại muôn đời trong nền văn học nước nhà – Thơ của mọi thời đại. Đó là loại thơ có đẳng cấp cao nhất. ”
 
1.  "NGƯỜI ĐÀN BÀ TRẮNG": Cũng như "Đây thôn Vĩ Dạ" của Hàn Mặc Tử ( thuộc trong ít bài thơ nổi tiếng nhất thế kỷ XX )... với bài "Người đàn bà trắng" của Phạm Ngọc Thái - Cả hai thi phẩm tuy ra đời cách nhau hơn nửa thế kỷ, song đều được viết theo thi pháp của dòng thơ tượng trưng hiện đại châu Âu... tạo nên sự huyền ảo, kỳ diệu.
-    Liệu NĐBT đã hay được như ĐTVD của HMT chưa?
     Như nhận xét: Thơ HMT nhẹ nhàng, đầy ánh trăng và thanh... dễ đi vào lòng người – Thơ PNT thăm thẳm triết luận, càng đọc càng thấy hay !? Hay ở từng câu chữ, chứa đựng những trăn trở của nhà thơ trong đó.
      Một đời thơ có được tuyệt tác thi ca như "Đây thôn Vĩ Dạ" của HMT cũng đã bất tử, danh lưu muôn đời !!!  Chưa nói là ngoài "Người đàn bà trắng", PNT vẫn còn cả ngọn thi sơn thơ hay các loại, để sánh với hàng bậc “thi nhân lớn” kiệt xuất xưa nay - Trừ Truyện Kiều vĩ đại của Đại thi hào Nguyễn Du.
 
          NGƯỜI ĐÀN BÀ TRẮNG
 
                         Người đàn bà đi trong mưa rơi
                        Chứa một trời thầm như hoa vậy...
                                   (Tặng Bích Đào)
 
Chiếc mũ trắng mềm, em đội bầu trời
Khóm mây trắng bay, nghiêng trôi trên tóc
Đôi mắt em đong những áng mây
Người đàn bà trắng!
 
Em đi, về... chao những hàng cây
Hồ gió thổi lệch vành mũ đội
Thấm đẫm mình em cả thềm nắng gội
Xoã ngang vai mái hất tơi bời
 
Nỗi niềm thao thức
Những đêm trăng nước...
Chùm trinh em hát: Đấy chỗ thiên thai!
Người đàn bà ai mà định nghĩa?
 
Đường xưa đó về đây, em ơi!
Những con đường đã đầy xác lá rơi
Xác ve, xác gió và xác của mưa.
 
Em không biến thành đá để hoá Vọng Phu
Anh cũng không làm chàng Trương Chi,
                                      suốt đời chèo sông vắng
Ta không đi theo Con Đường Lông Ngỗng Trắng
Dẫu hình hài khắc mãi tim nhau
 
Vết thương lòng không dễ đã lành đâu
Những đêm sao buồn, những đêm gió khát
Khúc thơ tình anh lại viết về em
Người đàn bà ngậm cả vầng trăng.
 
2.  TÌNH CA “SÁNG THU VÀNG”: Cũng được viết theo thi pháp của dòng thơ tượng trưng hiện đại Pháp vào đầu thế kỷ XX, nhưng phát triển theo khuynh hướng của thuyết “Tương ứng cảm quan” do Charles Baudelaire (1821-1867), bậc thầy của trường phái thơ tượng trưng châu Âu lúc đó khởi xướng. Baudelaire đã định nghĩa trong thuyết “Tương ứng cảm quan” như sau:
                     Thiên nhiên là một ngôi đền mà trong đó
                                                                          những cột sinh linh
                     Thỉnh thoảng phát ra những ngôn ngữ mơ hồ,
                     Con người đi trong thiên nhiên qua những rừng biểu tượng...
     Nghĩa là: giữa vật này với vật khác, giữa con người – cuộc sống với thiên nhiên, đều có thể thay thế nhau bằng biểu tượng. Để phản ảnh một cách tương ứng, nhưng dựa vào cảm thụ được phát ra từ các giác quan (gọi là cảm quan), hay từ trong tâm linh, cho nên thỉnh thoảng ngôn ngữ mơ hồ…
 
     Trong ngàn năm Thăng Long có hai bài mùa thu nổi tiếng nhất, đó là "Thu điếu" của Nguyễn Khuyến và "Cảnh thu" Hồ Xuân Hương... ( Bài "Tiếng thu" tuyệt hay của Lưu Trọng Lư, bị cho là cóp lai hình ảnh “rừng thu...” từ bài thơ của Nhật từ thế kỷ XVI – Bởi vậy ngày nay trên văn đàn không mấy ai còn nhắc đến).
       Không thể đem “Sáng thu vàng” ra ướm thử với “Thu điếu”, hay “Cảnh thu”... của các cố nhân ?... Vì hai bài thơ này theo thi pháp dòng thơ cổ, giọng điệu rất khác nhau so với “Sáng thu vàng” của PNT - So sánh sẽ khập khiễng !?
    “Sáng thu vàng” là một thiên tình ca, phảng phất phong dáng của trường ca: Vào một buổi sáng đô thành dịu mát, trong khoảng không gian thiên nhiên dựng bên câu chuyện tình như truyền thuyết.
       Về phương pháp nghệ thuật “Sáng thu vàng”  được xây dựng theo nhịp điệu tựa một cánh võng mùa thu - Mới đầu còn đưa nhẹ, giọng thơ ru uyển chuyển,   hình ảnh người con gái tóc xoà bay trong gió... Sang đến khổ thơ ba và bốn thì cánh võng mùa thu đã được đẩy lên bay bổng:
                    …Sáng thu vàng mông mênh mênh mông 
                    …Sáng thu vàng xang xênh xênh xang 
       Nhà thơ Nga M.Lermôntốp từng viết những câu thơ nổi tiếng, bất hủ về tình yêu với người đàn bà, dù mối tình đã qua đi:
                        Tượng thờ dù đổ vẫn thiêng
                        Miếu thờ bỏ vắng vẫn nguyên miếu thờ.
       Đọc “Sáng thu vàng” của PNT đã được viết bằng một thi pháp nghệ thuật rất cao siêu: Ta thấy như cả mùa thu nghiêng chao theo người con gái, để nhắc lại một thời đôi trai gái đã từng hạnh phúc yêu nhau.
              MỘT THIÊN TÌNH CA MÙA THU HAY, CAO SIÊU NHẤT THỜI HIỆN ĐẠỊ !!!
 
           SÁNG THU VÀNG
 
                       Nhớ ngày gặp lại em bên hồ gió
 
                                        *
 Gặp lại em một sáng thu vàng
Nơi em đứng nắng tràn ngoài phố
Với trời xanh, hồ xanh gió
Gió đưa làn tóc em bay...                       
 
Sáng thu này trĩu cả hàng cây
Đô thành dịu mát
Ông lão ngồi bên gốc cây,
                bán những cây sáo trúc thổi vói lên trời
Bà xúc tép váy khều khào nước
 
Một thời xa lắc
Em nghiêng chao về một thời xa

Người con gái đã thành chính quả
(phảng phất trên đầu đôi nét phôi pha)
Đôi mắt em, bóng trúc bay xoà...
Đường phúc hậu, vầng trăng đầy nở...
Nghe không gian đổ vỡ cả mùa thu!

Sáng thu vàng mông mênh, mênh mông
Anh đứng trông em bên bờ sóng vỗ
Hồn đã mất trong rừng hoang thiếu nữ
Và trái tim cũng không còn.

Sáng thu vàng xang xênh, xênh xang
Những con đường xưa tắm hơi em
Môi em cười... hoa lá nát đau thêm
Thời gian trôi, cuộc sống buồn tênh

Một mùa thu lá lá
Nơi ấy giờ chỉ còn có cỏ
Bướm vàng hoa cũ vẫn bay ngang
Người đàn bà, em nuốt mùa thu tan.
 
3.  NHÌN TRĂNG NHỚ EM:  Theo nhận xét của Nhà giáo Nguyễn Thị Hoàng, về độ dài và phong dáng có thể ví hay nghiêng ngửa với tuyệt tác “Thuyền và biển”,  bài thơ hay nhất của nữ sĩ tài danh Xuân Quỳnh. Tuy mỗi bài một cách hay riêng, nhưng đều có chung cái tình lãng mạn, da diết, cháy bỏng, cuốn hút bạn đọc. 
      * Người thì nói: Thơ Xuân Quỳnh triết lý sống đơn giản, dễ nhận biết, dễ vào lòng người...
      *  Không ít bạn đọc lại nhận xét: Thơ PNT trác Việt, cao siêu... Nó mang tính khái quát, triết lý sâu sắc.
      Hai bài thơ như hai thỏi son đắt giá tô đẹp cho đời.
 
         NHÌN TRĂNG NHỚ EM
                           Tặng Ánh Tuyết
 
Nhìn mảnh trăng trời lại nhớ em
Trăng trôi miên man khi mờ, khi tỏ
Chúng mình đến với nhau, không còn thơ bé
Nhưng lòng tha thiết yêu thương
 
Trăng giữa tháng khuyết dần, tình cứ tràn dâng
Cả tới khi không còn trăng nữa
Thì em vẫn bên vành vạnh tỏ
Đưa anh vào giấc mộng ru đêm
 
Để cùng nhau say cảnh thần tiên
Cho quên hết biển đời ngang trái
Cuộc sống mưu sinh với bao mệt mỏi
Chân trời sẽ lụi tàn, nếu chẳng có tình em
 
Ôi, mảnh trăng nhỏ bé giữa mênh mang
Vẫn soi ngập cõi không gian vô tận
Sâu tận cùng trái tim anh hưng phấn
Đêm nằm thao thức vấn vương
 
Thần thánh hiện hình trong một mảnh trăng em
Dìu anh qua phong ba, bão táp
Giữa giấc ngủ chập chờn đêm bất diệt
Anh bay về ôm lấy em thương
 
Áp môi hôn lên vầng nguyệt của Cưng
Nghe trái đất dưới thân mình rung chuyển
Thế thái nhân tình dẫu bao đổi biến
Chẳng đảng phái nào sánh được hơn
 
Cả nhân thế này chỉ một "mảnh trăng con"
Sống mãi muôn đời, dù thay bao chủ nghĩa
Thức nhớ em hoài, trăng khuất không biết nữa
Nhìn khắp thiên hà càng da diết yêu thêm.
 
4.  VÁY THIẾU NỮ BAY: Cái mà dấu trong chiếc váy của người thiếu nữ lại bao trùm lên cả hồn thời đại? Làm say đắm thế gian? Không phải chỉ bây giờ, mà từ xa xưa đến mai sau, vẫn thế.
      Với ý nghĩa chân chính, lòng ham muốn tột độ... là đỉnh cao trong sự thăng hoa của tình yêu con người! Cái hạnh phúc vô giá, niềm đam mê vô tận - Đó chính là hạt nhân của tình lứa đôi: Vừa tạo nên những sướng vui và có khi cả nỗi đau khổ !? Nó mang đến ý nghĩa thánh thiện, đức nhân ái, bao dung trong tình yêu con người.
      Không ít các nhà phê bình văn học, từng bình luận: “... Từ khi có vũ trụ cùng thế giới con người, đến nay chưa có cái gì được coi là cao hơn, vĩ đại hơn “cái ấy” !... Dù nhân loại có tiến triển đến hàng triệu năm nữa, nó vẫn vĩ đại nhất!
      “Váy thiếu nữ bay” một bài thơ hoàn hảo, có đầy đủ phẩm bích ngợi ca về cái kiệt tác của thượng đế đã ban cho con người - Nó xứng đáng là một tuyệt phẩm thi ca” !!!
 
          VÁY THIẾU NỮ BAY
              Rõ ràng trong ngọc trắng ngà
                  Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên
                                  (Nguyễn Du)
 
                                           *
Váy thiếu nữ bay để ngỏ
Một khoảng trời nghiêng ngửa bên trong
Gió réo rắt, nắng bồn chồn hơi thở
Tìm vào cung cấm của em

“Bờ bãi con người” em trổ hoa trái ngọt
Đến đế vương cũng khum gối cầu mong
Váy thiếu nữ bay lộ một lâu đài, điện ngọc
Nơi sự sống nhân quần tiến hoá muôn năm

Váy thiếu nữ bay mang cả hồn thời đại
Mênh mông bầu trời, say đắm thế gian
Có phải đó khúc quân hành nhân loại
Em giữ trong mình nguyên thuỷ lẫn văn minh

Váy thiếu nữ bay để thấy đời còn có lý!
Sự sống anh cùng nhân thế tồn sinh
Dù dung tục vẫn thánh tiên bậc nhất
Khởi điểm cho các luồng chính trị toả hào quang.
 
                                 HAI TÌNH THI SAU KHÔNG PHÂN TÍCH CHO BÀI BỚT DÀI
 
5.       CON ĐƯỜNG PHƯỢNG ĐỎ

Em mang màu phượng đỏ ra đi
Anh tha thẩn dọc hè phố nhỏ
Nơi kỉ niệm của mối tình sinh nữ
Xác ve còn bám ở thân cây.

Con đường phượng đỏ đêm nay
Mây lãng du bay, trời xanh vô định
Những cánh hoa rung trong hoài niệm
Nghe lòng thổn thức đâu đây

Phượng đã cháy lên một thời
Nửa tóc bạc rồi, nửa mái xanh phơ phất
Tới một ngày chúng cũng tàn úa hết
Ta sẽ thành ông bà lão, em ơi!

Con đường tình đẫm giọt sương rơi
Gió vẫn xạc xào vi vút thổi
Giá hồi ấy chúng mình lấy nhau, rồi sinh năm đẻ bảy
Thì đâu còn phượng để anh ru?

Em đã mang màu phượng ấy ra đi...
 
 
6.            ANH VẪN VỀ
   THEO DÒNG LỆ EM TIẾC NUỐI
                                        
Em nói với tôi rằng: “Muốn có một đứa con…”
Dù xa cách nhớ nhau trong hoài niệm
Năm tháng dáng hình em hiển hiện
Phía chân trời thắp sáng lửa tim tôi!
 
Người thục nữ tôi yêu, những năm cuối cuộc đời
Cho tới lúc nấm mồ anh xanh cỏ
Em hãy thắp nén hương lòng tưởng nhớ
Để hồn anh siêu thoát dưới trời âm
 
Gặp em muộn rồi, bóng xế hoàng hôn
Tóc cũng bạc đôi phần, dẫu tim còn khao khát
Ngày anh khuất chắc làm em thổn thức
Nước mắt tràn trên nấm mộ thương yêu
 
Thì đời này, em ạ! Có trớ trêu
Nhưng ta đã bên nhau sưởi ấm mùa đông rét
Anh hôn lên đôi môi em, như một vầng trăng khuyết
Thấy cả bầu trời du ngoạn cõi hồn xanh
 
Lại bùng cháy trong thơ ngọn lửa trái tim
Ngọn lửa của tình yêu vĩnh diệt
Em đừng khóc cho lòng anh thêm tan nát
Có rời chốn dương trần, anh không chết đâu em!
 
Chỉ hóa kiếp mình, tiếp cuộc trường sinh
Cùng thi ca, anh sẽ sống muôn đời trong nhân thế
Vẫn khắc khoải quanh nàng vào nỗi nhớ
Với mối tình nồng thắm của em yêu
 
Nếu giây phút nào, em lạc bến cô liêu?
Giọt lệ thơ rơi nhòa trang giấy trắng
Hãy tìm đến nấm mồ anh, miền xa vắng
Rồi âm thầm một chút khóc cho nhau
 
Anh thương em đời gặp cảnh bèo dâu
Em nhớ về anh sống kiếp chàng du mục
Thời trai trẻ phong trần, qua chiến tranh loạn lạc
Khi tuổi già, có vợ vẫn cô đơn
 
Anh tìm đến em, lúc đã tàn úa mái đầu xanh
Yêu tha thiết mà cách ngăn thế giới
Anh vẫn về theo dòng lệ em tiếc nuối
Và yên lòng nơi nấm mộ ngàn thu.
 
                        

Thứ Tư, 8 tháng 11, 2023

NHỚ HUẾ -HỒ THANH NGÂN

 

NHỚ HUẾ

Muốn trở về nhà từ đường để nhận mặt tổ tiên

Nghĩ mình công chưa thành danh chưa toại

Đứa con Tuy Hòa phiêu bạt nơi tận cùng đất nước

Cúi đầu tạ lỗi với tiền nhân


Làm sao quên mối tình cầu Trường Tiền em qua nghiêng nón

Làm sao lòng trong veo như nước dòng Hương

Lòng bình an trước thị phi như Ngự Bình muôn đời vẫn thế

Và em ơi cứ tím Huế vào thơ


Tôi mở lòng ra đón Huế như Cửu đỉnh ghi danh bao sản vật non sông

Lòng tôi đã hóa thơ trên ký ức cố đô Huế

Một mái chèo một ánh mắt một giọng hò ca ngân trong đêm

Để Huế trở thành vàng son trong nỗi nhớ

S Đ 1/8/2024

THẠCH ĐÀ

(Cà Mau)





Thứ Hai, 30 tháng 10, 2023

KHÔNG ĐỀ- THẠCH ĐÀ

 KHÔNG ĐỀ

Tặng TTMH

Mùa thu vàng hoa cúc

Mùa thu ngày em sinh

Thôi muộn phiền bình an mà sống

Cuộc đời vốn lắm khổ đau


Mình còn bên nhau

Giữa bộn bề cơm áo

Những sân si bỏ ngoài cánh cửa

Mình ngồi bên nhau đón thu về


Không có ai nắm tay từ sáng đến chiều

Khổ đau hạnh phúc luân hồi trong cuộc sống

Anh bớt mộng mơ em thôi lo nghĩ

Hiểu và thương cho một ngày sinh

23/9/2023

Thạch Đà


(Cà Mau)

KHÔNG ĐỀ- THẠCH ĐÀ

 

KHÔNG ĐỀ
Mỗi ngày cuộc đời mang cho tôi một nỗi buồn
Tôi tự cân bằng một niềm vui
Những phiền muộn như cánh chim không mỏi
Bay về đâu với trái tim đơn phương

Ngày mai người đứng phía nào con đường
Sẽ làm gì khi bị tổn thương
Màu mắt khác màu mây cũng khác 
Bốn bề chật chội một mùi hương

Sợ vỗ tay làm mình vô nghĩa
Sợ buồn bã đi giống kẻ tội đồ
Tôi mỗi ngày thảng thốt nỗi lo
Mong hy vọng xanh như màu mắt em vẽ
THẠCH ĐÀ
(Cà Mau)






CHÙM THƠ VIẾT VỀ MÁI TRƯỜNG SÔNG ĐỐC- THẠCH ĐÀ

 

KHI RỜI BỤC GIẢNG

Ngày mai thầy rời bục giảng

Có gì như nỗi chia ly

Những điều nói trên bục giảng

Lặng im trôi vào vô vì


Ngày mai không còn đến lớp

Trào dâng muôn nỗi ngậm ngùi

Xin chào những đàn con nhỏ

Cuộc đời biết mấy buồn vui


Nặng nề trên từng tiết giảng

Rưng rưng giáo án đong đầy

Các con đi về phía trước

Thầy lặng thầm nhìn mây bay



VỀ ĐÂY ĐỨNG BÊN MÁI TRƯỜNG

Về đây đứng bên mái trường

Để nghe nắng mưa giáo mùa

Khép nép đôi tà lụa mỏng

Thương tuổi học trò ngày xưa


Lời thầy cô như nước chảy

Thấm vào lòng theo thời gian

Màu phấn màu mây năm tháng

Không bạc bẽo trước nhân gian


Về đây sau ngày xa cách

Thuyền không tách bến giữa dòng

Tiếng hát mừng ngày hội ngộ

Tiếc gì một thuở lòng đong


Mang theo khát vọng chim bằng

Ruồi rong hành trang cuộc sống

Biết thương bảng đen phấn trắng

Bài học làm người không quên

Thạch Đà

(Cà Mau)


THƠ ĐẠO PHẬT TRONG TÔI - THẠCH ĐÀ

 


-


THƠ ĐẠO PHẬT TRONG TÔI
1. Tu hành nghèo khổ mà vui
Hát câu lạc đạo an bần thảnh thơi
Hào quang Phật như mặt trời
Chúng sinh đón nhận nơi nơi tùy mình
2. Nghiệp cũ thì hóa giải
Nghiệp mới đừng tạo ra
Sóng đời như sóng biển
Thuyền tâm đừng đảo chao
3. Ác nghiệp đừng dính vào
Căn lành nuôi thêm lớn
Đừng dính vào lưới Ma
Tâm bồ đề tức Phật
4. Phật là ngọn núi
Con là hạt bụi
Phật là đại dương
Con là giọt nước
Trí tuệ vô lượng
Đạo đức vô lượng
Con xin phụng thờ Người suốt đời
Nam mô bổn sư thích ca mâu Ni Phật
THẠCH ĐÀ
(Cà Mau)


Hội viên Hội VHNT Cà Mau
Hội viên Hội VHNT Phú Yên
Pháp danh: Thiện Thể


Tênthật: Hồ Thanh Ngân



Thứ Ba, 25 tháng 4, 2023

NHỚ VỀ NHÀ THƠ KHÁNG CHIẾN GIANG NAM - NGUYỄN TƯỜNG VĂN

 NHỚ VỀ NHÀ THƠ KHÁNG CHIẾN GIANG NAM  ‘*’

 

 


            Đó là một đêm khá lạnh của năm 1970 tôi ngồi trước máy chữ trên căn gác ngôi nhà số 42 đường Võ Tánh nay đổi thành Bùi Thị Xuân, thuộc Phường 2, thành phố Đà Lạt; đang lui cui sắp xếp bài vở chuẩn bị đánh lên giấy stencil để in ronéo tập tuyển thơ nhiều tác giả kịp phục vụ đại hội Sinh viên Phật tử Đà Lạt nhiệm kỳ mới. Anh Ngô Thế Lý (lúc này là Chủ tịch Sinh viên Phật tử) vội vã băng mình giữa tối giới nghiêm căng thẳng, từ giảng đường chùa Linh Sơn bí mật đem về bản chép tay bài thơ Quê Hương của tác giả Giang Nam, anh bảo đây là nhà thơ kháng chiến phải đăng ngay vào tuyển thơ “Việt Nam dân tộc anh hùng” mình đang xuất bản mới được. Vậy là tôi có dịp tiếp cận sáng tác của nhà thơ Giang Nam từ đó.

     Tâm trạng tôi lúc ấy vừa thích thú lại vừa hồi hộp. Thích thú là lần đầu được đọc tác phẩm của nhà thơ đi kháng chiến đã cho tôi những rung động rạo rực mới lạ  mà trước giờ chưa gặp, nhưng lòng hồi hộp lo trong lúc đang đánh máy thơ Giang Nam lên giấy in bất ngờ bị cớm chìm(mật vụ) đánh hơi phát hiện ập vào coi như nguy to, vì chung quanh khu vực tôi lúc ấy đa số là nhà trọ nhiều giới chức của chính quyền Sài Gòn nơi thành phố cao nguyên này. Nhằm đề phòng bất trắc, chúng tôi phải hãm thanh tối đa tiếng máy đánh chữ vọng ra, ngăn ánh điện làm việc không cho chiếu hắt qua cửa gương xuống phố đêm, bằng cách lấy chăn mền che kín bên trong tất cả các cửa và những ngóc ngách khả nghi rò rỉ ánh sáng và âm thanh của gác trọ trước khi làm việc. “Văn kỳ thanh bất kiến kỳ hình”, sự quyến rũ thơ kháng chiến Giang Nam như có ái lực thôi thúc anh em chúng tôi kỳ công chép bài Nghe em vào đại học từ chương trình thơ trên làn sóng Đài Tiếng Nói Việt Nam để đăng vào tập san Tin Tưởng của sinh viên Phật tử Đà Lạt số chủ đề “Đồng bào ta một lòng đuổi Mỹ” sau đó. Những sáng tác của Giang Nam cùng nhiều thơ nhạc các văn nghệ sĩ cách mạng hồi ấy lén nghe trong vùng địch tôi có cảm giác rất linh hiển; thậm chí trong trí tưởng tượng có phần ngô nghê đáng yêu rằng, nghệ sĩ cách mạng như những hiệp sĩ thời xưa thoắt ẩn thoắt hiện, nay đây mai đó, diệt gian trừ bạo, cứu nhân độ thế… Từ đó mỗi khi phát hiện thơ Giang Nam ở đâu tôi bằng mọi cách vồ đọc thưởng thức cho kỳ được, nhất là lén nghe các chương trình tiếng thơ trên Đài Tiếng nói Việt Nam và Đài Phát thanh Giải phóng. Do vậy những sáng tác của tôi thời kỳ này sớm bước sang lối rẽ dấn thân đối với cuộc chiến và bày tỏ thái độ trước thực trạng đất nước mà các báo chí đối lập chế độ cũ trước đây như: Đối Diện, Tin Sáng, Tin Tưởng, Tự Quyết, Trình Bày… thường đăng tải.

     Sau ngày đất nước thống nhất tôi mới gặp tác giả Giang Nam tại Nha Trang. Trước mắt tôi nhà thơ có vóc người tầm thước trung bình nhưng ẩn chứa nét phong trần với gương mặt sáng, dễ thân thiện, dễ xúc cảm. Hôm ông nói chuyện với các giới công chúng tỉnh Phú Khánh sau chuyến đi thực tế mà Khmer Đỏ vừa tràn qua gây tội ác cho đồng bào ta dọc theo nhiều tỉnh biên giới Tây Nam. Trong khi nhà thơ kể lại những điều mắt thấy tai nghe về những bạo tàn, thương đau, tang tóc dân mình phải gánh chịu, thi thoảng giọng nói ông chùng xuống nghèn nghẹn, chập chập ông lại gỡ kính mắt ra lau vì nhòe lệ.

    Sau này nhà thơ Giang Nam về làm Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Phú Khánh(gồm Phú Yên và Khánh Hòa) tôi thường có dịp tiếp xúc nhiều hơn với ông. Khi thì được nghe nhà thơ kể về đời sống gian lao, khó khăn, nguy hiểm của văn nghệ sĩ nơi chiến trường, lúc thì nói đến cách chọn đề tài để viết. Ông cho biết đôi khi mạch sáng tác bị nghẽn, nhà thơ tạm dừng bút quay sang làm việc khác cho đầu óc thư giãn, như sửa san cây cảnh, làm chuồng chăm sóc vật nuôi… Hầu hết sáng tác của ông đều bắt nguồn từ hiện thực; có lúc như tự truyện(bài Quê Hương), có lúc như khát vọng(bài Nghe em vào đại học), nhiều khi thơ ông trở thành bản cáo trạng đanh thép đối với kẻ thù.

          Hòa bình lập lại mạch thơ Giang Nam thêm phần cảm thông, chia xẻ với bao hoàn cảnh thiệt thòi; thậm chí khoan dung với kẻ lạc đường, độ lượng với số phận những phụ nữ lỡ lầm như trong bài lục bát khi ông đến thăm Trại phục hồi nhân phẩm Đồng Găng. Rồi ông chia xẻ với chúng tôi việc giao lưu chuyển gửi tác phẩm đến tòa soạn, đến nhà xuất bản; cách giữ gìn bảo quản cẩn thận bản thảo trong mọi tình huống. Vậy mà có lần thời bao cấp cuối những năm 70 đầu những năm 80 thế kỷ trước, phương tiện đi lại còn khó khăn, cảnh tàu xe căng thẳng nhốn nháo. Nhà thơ Giang Nam đem tập bản thảo vào cho nhà in thành phố Hồ Chí Minh đựng trong cặp táp dày cộp. Kẻ cắp trên tàu hỏa tưởng ông cán bộ này mang nhiều tiền, nhân cơ hội xô đẩy chen lấn đã rạch xách nhà thơ lấy trộm. Khi xuống tàu mới biết cặp xách bị rạch và cuốn bản thảo bị mất, ông bần thần tiếc nuối tập bản thảo vô chừng!

       Cả đời làm cách mạng, Giang Nam lúc nào cũng nghĩ đến chữ tâm, chữ đức. Ông chia xẻ: “Thi ca cũng cần phải có đạo đức, ngày xưa chúng tôi làm thơ cũng chỉ để phục vụ cho cái chân-thiện-mỹ, ngày nay cũng thế… Làm văn nghệ, lãnh đạo văn nghệ là phải phát hiện ra cái mới, phải đi tìm, nuôi dưỡng và bảo vệ những người sáng tạo đích thực, chứ không phải đến ngồi tán gẫu cho sung sướng rồi hưởng lương, rồi đấu đá, thế thì buồn lắm…”.

     Hồi ấy hội viên Hội văn học nghệ thuật tỉnh Phú Khánh chưa nhiều; hội viên phía bắc Phú Khánh(Phú Yên) lại càng quá ít. Nên khi tôi lập gia đình, Chủ tịch hội Giang Nam cùng các văn nghệ sĩ nhiệt tình đánh xe ra Tuy Hòa dự cưới. Hôm ấy nhằm ngày Tết dương lịch năm 1984 tổ chức tại nhà 69 đường Nguyễn Huệ. Các khách đến dự ngồi vào số bàn băng học sinh được mượn từ một trường tiểu học gần đó đem về, dùng tiệc trà, chúc mừng, rồi hát ca, đọc thơ, kể chuyện vui… Nhà thơ Giang Nam xung phong lên trước đọc liền 3 bài thơ tặng tiệc cưới, xong quay sang bắt tay chúc mừng cô dâu chú rể. Lần lượt nhà thơ Đào Xuân Quý, nhà văn Nguyễn Gia Nùng, nhà thơ Triệu Phong cũng vậy. Riêng họa sĩ Thanh Hồ vẽ sẵn chân dung phác họa tôi tặng trong dịp này. Rất vui!

     Những văn nghệ sĩ ngày ấy bao năm qua đã lần lượt lãng du vào cõi vĩnh hằng. Nay nhà thơ Giang Nam là người cuối cùng ra đi trong số văn nhân thi sĩ ở Nha Trang đến Phú Yên dự ngày vui của tôi cách nay gần 40 năm. Tôi xin mạn phép thay đôi chỗ trong câu thơ ở cuối bài Quê Hương để tiễn ông, mong hương linh người tha thứ. “Nay tôi yêu quê hương vì trong nắm đất/ Có một phần xương thịt của Giang Nam”.

 

                                                                                             Nguyễn Tường Văn

 

 

         ‘*’ Nhà thơ Giang Nam mất ngày 23-01-2023 tại Nha Trang, thọ 95 tuổi.

 

Đ/c: thôn Đông Phước, xã Hòa An, huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên. Dđ: 098475

BÀI MỚI ĐẮNG

Truyện ngắn: BÊN CÁNH GÀ CHÁNH ĐIỆN _ NGUYỄN HẢI ĐĂNG

Bên cánh gà chánh điện phần 1 BÊN CÁNH GÀ CHÁNH ĐIỆN Xe dừng lại với tiếng xột xoạt trên mặt đường, như bao chuyến xe đã ghé qua từ thuở ...