thư từ bài vở xin gửi về : hothanhngancm@gmail.com HỒ THANH NGÂN Hội viên hội văn học nghệ thuật Cà Mau Hội viên hội văn học nghệ thuật Phú Yên Hiện sống và viết tại Cà Mau Tác phẩm đã xuất bản : Sông Đốc Ngày Nắng Muộn - Nxb Thanh Niên (2016) Phương Nam Lộng gió - Nxb Hội Nhà Văn (2018) Trường Ca Nhớ Phú Yên - Nxb Hội Nhà Văn (2019 ) Chiều Ở Phía Ngược Gió - Nxb Hội Nhà Văn (2020)
Thứ Sáu, 15 tháng 12, 2023
VIẾT TRÊN CẦU MỚI _HỒ THANH NGÂN
Thứ Ba, 5 tháng 12, 2023
TỰ THÁN VỀ CUỘC ĐỜI -PHẠM NGỌC THÁI
Chủ Nhật, 19 tháng 11, 2023
XIN TẠ LỖI CÙNG THẦY - THẠCH ĐÀ
THẦY TÁM- THẦY KHAI TÂM -THẠCH ĐÀ
Thứ Sáu, 17 tháng 11, 2023
ĐƯA CON ĐẾN TRƯỚC CỔNG TRƯỜNG -HỒ THANH NGÂN
THƠ PHẠM NGỌC THÁI
CỦA PHẠM NGỌC THÁI
* Trích trong Thi tuyển gồm 171 bài: “15 BÀI THƠ TÌNH HAY XUẤT SẮC với 156 BÀI HAY VỪA & ĐẶC SẮC ”.
(giới thiệu)
Đăng trong Web. Việt Nam Thư Quán ( vnthuquan.net) ở Mỹ, mở link sau:
http://
Ở đây Tuyết Nga chỉ xin giới thiệu và đôi lời phân tích về:
SÁU TUYỆT PHẨM THI CA HÀNG ĐẦU PHẠM NGỌC THÁI
1. "NGƯỜI ĐÀN BÀ TRẮNG": Cũng như "Đây thôn Vĩ Dạ" của Hàn Mặc Tử ( thuộc trong ít bài thơ nổi tiếng nhất thế kỷ XX )... với bài "Người đàn bà trắng" của Phạm Ngọc Thái - Cả hai thi phẩm tuy ra đời cách nhau hơn nửa thế kỷ, song đều được viết theo thi pháp của dòng thơ tượng trưng hiện đại châu Âu... tạo nên sự huyền ảo, kỳ diệu.
- Liệu NĐBT đã hay được như ĐTVD của HMT chưa?
Như nhận xét: Thơ HMT nhẹ nhàng, đầy ánh trăng và thanh... dễ đi vào lòng người – Thơ PNT thăm thẳm triết luận, càng đọc càng thấy hay !? Hay ở từng câu chữ, chứa đựng những trăn trở của nhà thơ trong đó.
Một đời thơ có được tuyệt tác thi ca như "Đây thôn Vĩ Dạ" của HMT cũng đã bất tử, danh lưu muôn đời !!! Chưa nói là ngoài "Người đàn bà trắng", PNT vẫn còn cả ngọn thi sơn thơ hay các loại, để sánh với hàng bậc “thi nhân lớn” kiệt xuất xưa nay - Trừ Truyện Kiều vĩ đại của Đại thi hào Nguyễn Du.
NGƯỜI ĐÀN BÀ TRẮNG
Người đàn bà đi trong mưa rơi
Chứa một trời thầm như hoa vậy...
(Tặng Bích Đào)
Chiếc mũ trắng mềm, em đội bầu trời
Khóm mây trắng bay, nghiêng trôi trên tóc
Đôi mắt em đong những áng mây
Người đàn bà trắng!
Em đi, về... chao những hàng cây
Hồ gió thổi lệch vành mũ đội
Thấm đẫm mình em cả thềm nắng gội
Xoã ngang vai mái hất tơi bời
Nỗi niềm thao thức
Những đêm trăng nước...
Chùm trinh em hát: Đấy chỗ thiên thai!
Người đàn bà ai mà định nghĩa?
Đường xưa đó về đây, em ơi!
Những con đường đã đầy xác lá rơi
Xác ve, xác gió và xác của mưa.
Em không biến thành đá để hoá Vọng Phu
Anh cũng không làm chàng Trương Chi,
Ta không đi theo Con Đường Lông Ngỗng Trắng
Dẫu hình hài khắc mãi tim nhau
Vết thương lòng không dễ đã lành đâu
Những đêm sao buồn, những đêm gió khát
Khúc thơ tình anh lại viết về em
Người đàn bà ngậm cả vầng trăng.
2. TÌNH CA “SÁNG THU VÀNG”: Cũng được viết theo thi pháp của dòng thơ tượng trưng hiện đại Pháp vào đầu thế kỷ XX, nhưng phát triển theo khuynh hướng của thuyết “Tương ứng cảm quan” do Charles Baudelaire (1821-1867), bậc thầy của trường phái thơ tượng trưng châu Âu lúc đó khởi xướng. Baudelaire đã định nghĩa trong thuyết “Tương ứng cảm quan” như sau:
Thiên nhiên là một ngôi đền mà trong đó
Thỉnh thoảng phát ra những ngôn ngữ mơ hồ,
Con người đi trong thiên nhiên qua những rừng biểu tượng...
Nghĩa là: giữa vật này với vật khác, giữa con người – cuộc sống với thiên nhiên, đều có thể thay thế nhau bằng biểu tượng. Để phản ảnh một cách tương ứng, nhưng dựa vào cảm thụ được phát ra từ các giác quan (gọi là cảm quan), hay từ trong tâm linh, cho nên thỉnh thoảng ngôn ngữ mơ hồ…
Trong ngàn năm Thăng Long có hai bài mùa thu nổi tiếng nhất, đó là "Thu điếu" của Nguyễn Khuyến và "Cảnh thu" Hồ Xuân Hương... ( Bài "Tiếng thu" tuyệt hay của Lưu Trọng Lư, bị cho là cóp lai hình ảnh “rừng thu...” từ bài thơ của Nhật từ thế kỷ XVI – Bởi vậy ngày nay trên văn đàn không mấy ai còn nhắc đến).
Không thể đem “Sáng thu vàng” ra ướm thử với “Thu điếu”, hay “Cảnh thu”... của các cố nhân ?... Vì hai bài thơ này theo thi pháp dòng thơ cổ, giọng điệu rất khác nhau so với “Sáng thu vàng” của PNT - So sánh sẽ khập khiễng !?
“Sáng thu vàng” là một thiên tình ca, phảng phất phong dáng của trường ca: Vào một buổi sáng đô thành dịu mát, trong khoảng không gian thiên nhiên dựng bên câu chuyện tình như truyền thuyết.
Về phương pháp nghệ thuật “Sáng thu vàng” được xây dựng theo nhịp điệu tựa một cánh võng mùa thu - Mới đầu còn đưa nhẹ, giọng thơ ru uyển chuyển, hình ảnh người con gái tóc xoà bay trong gió... Sang đến khổ thơ ba và bốn thì cánh võng mùa thu đã được đẩy lên bay bổng:
…Sáng thu vàng mông mênh mênh mông
…Sáng thu vàng xang xênh xênh xang
Nhà thơ Nga M.Lermôntốp từng viết những câu thơ nổi tiếng, bất hủ về tình yêu với người đàn bà, dù mối tình đã qua đi:
Tượng thờ dù đổ vẫn thiêng
Miếu thờ bỏ vắng vẫn nguyên miếu thờ.
Đọc “Sáng thu vàng” của PNT đã được viết bằng một thi pháp nghệ thuật rất cao siêu: Ta thấy như cả mùa thu nghiêng chao theo người con gái, để nhắc lại một thời đôi trai gái đã từng hạnh phúc yêu nhau.
MỘT THIÊN TÌNH CA MÙA THU HAY, CAO SIÊU NHẤT THỜI HIỆN ĐẠỊ !!!
SÁNG THU VÀNG
Nhớ ngày gặp lại em bên hồ gió
*
Gặp lại em một sáng thu vàng
Nơi em đứng nắng tràn ngoài phố
Với trời xanh, hồ xanh gió
Gió đưa làn tóc em bay...
Sáng thu này trĩu cả hàng cây
Đô thành dịu mát
Ông lão ngồi bên gốc cây,
bán những cây sáo trúc thổi vói lên trời
Bà xúc tép váy khều khào nước
Một thời xa lắc
Em nghiêng chao về một thời xa
Người con gái đã thành chính quả
(phảng phất trên đầu đôi nét phôi pha)
Đôi mắt em, bóng trúc bay xoà...
Đường phúc hậu, vầng trăng đầy nở...
Nghe không gian đổ vỡ cả mùa thu!
Sáng thu vàng mông mênh, mênh mông
Anh đứng trông em bên bờ sóng vỗ
Hồn đã mất trong rừng hoang thiếu nữ
Và trái tim cũng không còn.
Sáng thu vàng xang xênh, xênh xang
Những con đường xưa tắm hơi em
Môi em cười... hoa lá nát đau thêm
Thời gian trôi, cuộc sống buồn tênh
Một mùa thu lá lá
Nơi ấy giờ chỉ còn có cỏ
Bướm vàng hoa cũ vẫn bay ngang
Người đàn bà, em nuốt mùa thu tan.
3. NHÌN TRĂNG NHỚ EM: Theo nhận xét của Nhà giáo Nguyễn Thị Hoàng, về độ dài và phong dáng có thể ví hay nghiêng ngửa với tuyệt tác “Thuyền và biển”, bài thơ hay nhất của nữ sĩ tài danh Xuân Quỳnh. Tuy mỗi bài một cách hay riêng, nhưng đều có chung cái tình lãng mạn, da diết, cháy bỏng, cuốn hút bạn đọc.
* Người thì nói: Thơ Xuân Quỳnh triết lý sống đơn giản, dễ nhận biết, dễ vào lòng người...
* Không ít bạn đọc lại nhận xét: Thơ PNT trác Việt, cao siêu... Nó mang tính khái quát, triết lý sâu sắc.
Hai bài thơ như hai thỏi son đắt giá tô đẹp cho đời.
NHÌN TRĂNG NHỚ EM
Tặng Ánh Tuyết
Nhìn mảnh trăng trời lại nhớ em
Trăng trôi miên man khi mờ, khi tỏ
Chúng mình đến với nhau, không còn thơ bé
Nhưng lòng tha thiết yêu thương
Trăng giữa tháng khuyết dần, tình cứ tràn dâng
Cả tới khi không còn trăng nữa
Thì em vẫn bên vành vạnh tỏ
Đưa anh vào giấc mộng ru đêm
Để cùng nhau say cảnh thần tiên
Cho quên hết biển đời ngang trái
Cuộc sống mưu sinh với bao mệt mỏi
Chân trời sẽ lụi tàn, nếu chẳng có tình em
Ôi, mảnh trăng nhỏ bé giữa mênh mang
Vẫn soi ngập cõi không gian vô tận
Sâu tận cùng trái tim anh hưng phấn
Đêm nằm thao thức vấn vương
Thần thánh hiện hình trong một mảnh trăng em
Dìu anh qua phong ba, bão táp
Giữa giấc ngủ chập chờn đêm bất diệt
Anh bay về ôm lấy em thương
Áp môi hôn lên vầng nguyệt của Cưng
Nghe trái đất dưới thân mình rung chuyển
Thế thái nhân tình dẫu bao đổi biến
Chẳng đảng phái nào sánh được hơn
Cả nhân thế này chỉ một "mảnh trăng con"
Sống mãi muôn đời, dù thay bao chủ nghĩa
Thức nhớ em hoài, trăng khuất không biết nữa
Nhìn khắp thiên hà càng da diết yêu thêm.
4. VÁY THIẾU NỮ BAY: Cái mà dấu trong chiếc váy của người thiếu nữ lại bao trùm lên cả hồn thời đại? Làm say đắm thế gian? Không phải chỉ bây giờ, mà từ xa xưa đến mai sau, vẫn thế.
Với ý nghĩa chân chính, lòng ham muốn tột độ... là đỉnh cao trong sự thăng hoa của tình yêu con người! Cái hạnh phúc vô giá, niềm đam mê vô tận - Đó chính là hạt nhân của tình lứa đôi: Vừa tạo nên những sướng vui và có khi cả nỗi đau khổ !? Nó mang đến ý nghĩa thánh thiện, đức nhân ái, bao dung trong tình yêu con người.
Không ít các nhà phê bình văn học, từng bình luận: “... Từ khi có vũ trụ cùng thế giới con người, đến nay chưa có cái gì được coi là cao hơn, vĩ đại hơn “cái ấy” !... Dù nhân loại có tiến triển đến hàng triệu năm nữa, nó vẫn vĩ đại nhất!
“Váy thiếu nữ bay” một bài thơ hoàn hảo, có đầy đủ phẩm bích ngợi ca về cái kiệt tác của thượng đế đã ban cho con người - Nó xứng đáng là một tuyệt phẩm thi ca” !!!
VÁY THIẾU NỮ BAY
Rõ ràng trong ngọc trắng ngà
Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên
Váy thiếu nữ bay để ngỏ
Một khoảng trời nghiêng ngửa bên trong
Gió réo rắt, nắng bồn chồn hơi thở
Tìm vào cung cấm của em
“Bờ bãi con người” em trổ hoa trái ngọt
Đến đế vương cũng khum gối cầu mong
Váy thiếu nữ bay lộ một lâu đài, điện ngọc
Nơi sự sống nhân quần tiến hoá muôn năm
Váy thiếu nữ bay mang cả hồn thời đại
Mênh mông bầu trời, say đắm thế gian
Có phải đó khúc quân hành nhân loại
Em giữ trong mình nguyên thuỷ lẫn văn minh
Váy thiếu nữ bay để thấy đời còn có lý!
Sự sống anh cùng nhân thế tồn sinh
Dù dung tục vẫn thánh tiên bậc nhất
Khởi điểm cho các luồng chính trị toả hào quang.
HAI TÌNH THI SAU KHÔNG PHÂN TÍCH CHO BÀI BỚT DÀI
5. CON ĐƯỜNG PHƯỢNG ĐỎ
Em mang màu phượng đỏ ra đi
Anh tha thẩn dọc hè phố nhỏ
Nơi kỉ niệm của mối tình sinh nữ
Xác ve còn bám ở thân cây.
Con đường phượng đỏ đêm nay
Mây lãng du bay, trời xanh vô định
Những cánh hoa rung trong hoài niệm
Nghe lòng thổn thức đâu đây
Phượng đã cháy lên một thời
Nửa tóc bạc rồi, nửa mái xanh phơ phất
Tới một ngày chúng cũng tàn úa hết
Ta sẽ thành ông bà lão, em ơi!
Con đường tình đẫm giọt sương rơi
Gió vẫn xạc xào vi vút thổi
Giá hồi ấy chúng mình lấy nhau, rồi sinh năm đẻ bảy
Thì đâu còn phượng để anh ru?
Em đã mang màu phượng ấy ra đi...
6. ANH VẪN VỀ
THEO DÒNG LỆ EM TIẾC NUỐI
Em nói với tôi rằng: “Muốn có một đứa con…”
Dù xa cách nhớ nhau trong hoài niệm
Năm tháng dáng hình em hiển hiện
Phía chân trời thắp sáng lửa tim tôi!
Người thục nữ tôi yêu, những năm cuối cuộc đời
Cho tới lúc nấm mồ anh xanh cỏ
Em hãy thắp nén hương lòng tưởng nhớ
Để hồn anh siêu thoát dưới trời âm
Gặp em muộn rồi, bóng xế hoàng hôn
Tóc cũng bạc đôi phần, dẫu tim còn khao khát
Ngày anh khuất chắc làm em thổn thức
Nước mắt tràn trên nấm mộ thương yêu
Thì đời này, em ạ! Có trớ trêu
Nhưng ta đã bên nhau sưởi ấm mùa đông rét
Anh hôn lên đôi môi em, như một vầng trăng khuyết
Thấy cả bầu trời du ngoạn cõi hồn xanh
Lại bùng cháy trong thơ ngọn lửa trái tim
Ngọn lửa của tình yêu vĩnh diệt
Em đừng khóc cho lòng anh thêm tan nát
Có rời chốn dương trần, anh không chết đâu em!
Chỉ hóa kiếp mình, tiếp cuộc trường sinh
Cùng thi ca, anh sẽ sống muôn đời trong nhân thế
Vẫn khắc khoải quanh nàng vào nỗi nhớ
Với mối tình nồng thắm của em yêu
Nếu giây phút nào, em lạc bến cô liêu?
Giọt lệ thơ rơi nhòa trang giấy trắng
Hãy tìm đến nấm mồ anh, miền xa vắng
Rồi âm thầm một chút khóc cho nhau
Anh thương em đời gặp cảnh bèo dâu
Em nhớ về anh sống kiếp chàng du mục
Thời trai trẻ phong trần, qua chiến tranh loạn lạc
Khi tuổi già, có vợ vẫn cô đơn
Anh tìm đến em, lúc đã tàn úa mái đầu xanh
Yêu tha thiết mà cách ngăn thế giới
Anh vẫn về theo dòng lệ em tiếc nuối
Và yên lòng nơi nấm mộ ngàn thu.
Thứ Tư, 8 tháng 11, 2023
NHỚ HUẾ -HỒ THANH NGÂN
NHỚ HUẾ
Muốn trở về nhà từ đường để nhận mặt tổ tiên
Nghĩ mình công chưa thành danh chưa toại
Đứa con Tuy Hòa phiêu bạt nơi tận cùng đất nước
Cúi đầu tạ lỗi với tiền nhân
Làm sao quên mối tình cầu Trường Tiền em qua nghiêng nón
Làm sao lòng trong veo như nước dòng Hương
Lòng bình an trước thị phi như Ngự Bình muôn đời vẫn thế
Và em ơi cứ tím Huế vào thơ
Tôi mở lòng ra đón Huế như Cửu đỉnh ghi danh bao sản vật non sông
Lòng tôi đã hóa thơ trên ký ức cố đô Huế
Một mái chèo một ánh mắt một giọng hò ca ngân trong đêm
Để Huế trở thành vàng son trong nỗi nhớ
S Đ 1/8/2024
THẠCH ĐÀ
(Cà Mau)
Thứ Hai, 30 tháng 10, 2023
KHÔNG ĐỀ- THẠCH ĐÀ
KHÔNG ĐỀ
Tặng TTMH
Mùa thu vàng hoa cúc
Mùa thu ngày em sinh
Thôi muộn phiền bình an mà sống
Cuộc đời vốn lắm khổ đau
Mình còn bên nhau
Giữa bộn bề cơm áo
Những sân si bỏ ngoài cánh cửa
Mình ngồi bên nhau đón thu về
Không có ai nắm tay từ sáng đến chiều
Khổ đau hạnh phúc luân hồi trong cuộc sống
Anh bớt mộng mơ em thôi lo nghĩ
Hiểu và thương cho một ngày sinh
23/9/2023
Thạch Đà
(Cà Mau)
KHÔNG ĐỀ- THẠCH ĐÀ
CHÙM THƠ VIẾT VỀ MÁI TRƯỜNG SÔNG ĐỐC- THẠCH ĐÀ
KHI RỜI BỤC GIẢNG
Ngày mai thầy rời bục giảng
Có gì như nỗi chia ly
Những điều nói trên bục giảng
Lặng im trôi vào vô vì
Ngày mai không còn đến lớp
Trào dâng muôn nỗi ngậm ngùi
Xin chào những đàn con nhỏ
Cuộc đời biết mấy buồn vui
Nặng nề trên từng tiết giảng
Rưng rưng giáo án đong đầy
Các con đi về phía trước
Thầy lặng thầm nhìn mây bay
VỀ ĐÂY ĐỨNG BÊN MÁI TRƯỜNG
Về đây đứng bên mái trường
Để nghe nắng mưa giáo mùa
Khép nép đôi tà lụa mỏng
Thương tuổi học trò ngày xưa
Lời thầy cô như nước chảy
Thấm vào lòng theo thời gian
Màu phấn màu mây năm tháng
Không bạc bẽo trước nhân gian
Về đây sau ngày xa cách
Thuyền không tách bến giữa dòng
Tiếng hát mừng ngày hội ngộ
Tiếc gì một thuở lòng đong
Mang theo khát vọng chim bằng
Ruồi rong hành trang cuộc sống
Biết thương bảng đen phấn trắng
Bài học làm người không quên
Thạch Đà
(Cà Mau)
THƠ ĐẠO PHẬT TRONG TÔI - THẠCH ĐÀ
Thứ Ba, 25 tháng 4, 2023
NHỚ VỀ NHÀ THƠ KHÁNG CHIẾN GIANG NAM - NGUYỄN TƯỜNG VĂN
NHỚ VỀ NHÀ THƠ KHÁNG CHIẾN GIANG NAM ‘*’
Đó là một đêm khá lạnh của năm 1970 tôi
ngồi trước máy chữ trên căn gác ngôi nhà số 42 đường Võ Tánh nay đổi thành Bùi
Thị Xuân, thuộc Phường 2, thành phố Đà Lạt; đang lui cui sắp xếp bài vở chuẩn
bị đánh lên giấy stencil để in ronéo tập tuyển thơ nhiều tác giả kịp phục vụ đại
hội Sinh viên Phật tử Đà Lạt nhiệm kỳ mới. Anh Ngô Thế Lý (lúc này là Chủ tịch
Sinh viên Phật tử) vội vã băng mình giữa tối giới nghiêm căng thẳng, từ giảng
đường chùa Linh Sơn bí mật đem về bản chép tay bài thơ Quê Hương của tác giả Giang
Nam, anh bảo đây là nhà thơ kháng chiến
phải đăng ngay vào tuyển thơ “Việt Nam
dân tộc anh hùng” mình đang xuất bản mới được. Vậy là tôi có dịp tiếp cận
sáng tác của nhà thơ Giang Nam từ đó.
Tâm trạng
tôi lúc ấy vừa thích thú lại vừa hồi hộp. Thích thú là lần đầu được đọc tác
phẩm của nhà thơ đi kháng chiến đã cho tôi những rung động rạo rực mới lạ mà trước giờ chưa gặp, nhưng lòng hồi hộp lo
trong lúc đang đánh máy thơ Giang Nam
lên giấy in bất ngờ bị cớm chìm(mật vụ) đánh hơi phát hiện ập vào coi như nguy
to, vì chung quanh khu vực tôi lúc ấy đa số là nhà trọ nhiều giới chức của
chính quyền Sài Gòn nơi thành phố cao nguyên này. Nhằm đề phòng bất trắc, chúng
tôi phải hãm thanh tối đa tiếng máy đánh chữ vọng ra, ngăn ánh điện làm việc
không cho chiếu hắt qua cửa gương xuống phố đêm, bằng cách lấy chăn mền che kín
bên trong tất cả các cửa và những ngóc ngách khả nghi rò rỉ ánh sáng và âm
thanh của gác trọ trước khi làm việc. “Văn kỳ thanh bất kiến kỳ hình”, sự quyến
rũ thơ kháng chiến Giang Nam như có ái lực thôi thúc anh em chúng tôi kỳ công
chép bài Nghe em vào đại học từ
chương trình thơ trên làn sóng Đài Tiếng Nói Việt Nam để đăng vào tập san Tin Tưởng của sinh viên Phật tử Đà Lạt
số chủ đề “Đồng bào ta một lòng đuổi Mỹ”
sau đó. Những sáng tác của Giang Nam cùng nhiều thơ nhạc các văn nghệ sĩ cách
mạng hồi ấy lén nghe trong vùng địch tôi có cảm giác rất linh hiển; thậm chí
trong trí tưởng tượng có phần ngô nghê đáng yêu rằng, nghệ sĩ cách mạng như
những hiệp sĩ thời xưa thoắt ẩn thoắt hiện, nay đây mai đó, diệt gian trừ bạo,
cứu nhân độ thế… Từ đó mỗi khi phát hiện thơ Giang Nam ở đâu tôi bằng mọi cách
vồ đọc thưởng thức cho kỳ được, nhất là lén nghe các chương trình tiếng thơ
trên Đài Tiếng nói Việt Nam và Đài Phát thanh Giải phóng. Do vậy những sáng tác
của tôi thời kỳ này sớm bước sang lối rẽ dấn thân đối với cuộc chiến và bày tỏ
thái độ trước thực trạng đất nước mà các báo chí đối lập chế độ cũ trước đây như:
Đối Diện, Tin Sáng, Tin Tưởng, Tự Quyết, Trình Bày… thường đăng tải.
Sau ngày
đất nước thống nhất tôi mới gặp tác giả Giang Nam tại Nha Trang. Trước mắt tôi
nhà thơ có vóc người tầm thước trung bình nhưng ẩn chứa nét phong trần với
gương mặt sáng, dễ thân thiện, dễ xúc cảm. Hôm ông nói chuyện với các giới công
chúng tỉnh Phú Khánh sau chuyến đi thực tế mà Khmer Đỏ vừa tràn qua gây tội ác
cho đồng bào ta dọc theo nhiều tỉnh biên giới Tây Nam. Trong khi nhà thơ kể lại
những điều mắt thấy tai nghe về những bạo tàn, thương đau, tang tóc dân mình
phải gánh chịu, thi thoảng giọng nói ông chùng xuống nghèn nghẹn, chập chập ông
lại gỡ kính mắt ra lau vì nhòe lệ.
Sau này nhà
thơ Giang Nam về làm Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Phú Khánh(gồm Phú Yên
và Khánh Hòa) tôi thường có dịp tiếp xúc nhiều hơn với ông. Khi thì được nghe
nhà thơ kể về đời sống gian lao, khó khăn, nguy hiểm của văn nghệ sĩ nơi chiến
trường, lúc thì nói đến cách chọn đề tài để viết. Ông cho biết đôi khi mạch sáng
tác bị nghẽn, nhà thơ tạm dừng bút quay sang làm việc khác cho đầu óc thư giãn,
như sửa san cây cảnh, làm chuồng chăm sóc vật nuôi… Hầu hết sáng tác của ông đều
bắt nguồn từ hiện thực; có lúc như tự truyện(bài Quê Hương), có lúc như khát vọng(bài Nghe em vào đại học), nhiều khi thơ ông trở thành bản cáo trạng
đanh thép đối với kẻ thù.
Hòa bình lập lại mạch thơ Giang Nam thêm phần
cảm thông, chia xẻ với bao hoàn cảnh thiệt thòi; thậm chí khoan dung với kẻ lạc
đường, độ lượng với số phận những phụ nữ lỡ lầm như trong bài lục bát khi ông
đến thăm Trại phục hồi nhân phẩm Đồng Găng. Rồi ông chia xẻ với chúng tôi việc
giao lưu chuyển gửi tác phẩm đến tòa soạn, đến nhà xuất bản; cách giữ gìn bảo
quản cẩn thận bản thảo trong mọi tình huống. Vậy mà có lần thời bao cấp cuối
những năm 70 đầu những năm 80 thế kỷ trước, phương tiện đi lại còn khó khăn,
cảnh tàu xe căng thẳng nhốn nháo. Nhà thơ Giang Nam đem tập bản thảo vào cho
nhà in thành phố Hồ Chí Minh đựng trong cặp táp dày cộp. Kẻ cắp trên tàu hỏa tưởng
ông cán bộ này mang nhiều tiền, nhân cơ hội xô đẩy chen lấn đã rạch xách nhà
thơ lấy trộm. Khi xuống tàu mới biết cặp xách bị rạch và cuốn bản thảo bị mất,
ông bần thần tiếc nuối tập bản thảo vô chừng!
Cả đời
làm cách mạng, Giang Nam lúc nào cũng nghĩ đến chữ tâm, chữ đức. Ông chia xẻ:
“Thi ca cũng cần phải có đạo đức, ngày xưa chúng tôi làm thơ cũng chỉ để phục
vụ cho cái chân-thiện-mỹ, ngày nay cũng thế… Làm văn nghệ, lãnh đạo văn nghệ là
phải phát hiện ra cái mới, phải đi tìm, nuôi dưỡng và bảo vệ những người sáng
tạo đích thực, chứ không phải đến ngồi tán gẫu cho sung sướng rồi hưởng lương,
rồi đấu đá, thế thì buồn lắm…”.
Hồi ấy hội
viên Hội văn học nghệ thuật tỉnh Phú Khánh chưa nhiều; hội viên phía bắc Phú Khánh(Phú
Yên) lại càng quá ít. Nên khi tôi lập gia đình, Chủ tịch hội Giang Nam cùng các
văn nghệ sĩ nhiệt tình đánh xe ra Tuy Hòa dự cưới. Hôm ấy nhằm ngày Tết dương
lịch năm 1984 tổ chức tại nhà 69 đường Nguyễn Huệ. Các khách đến dự ngồi vào số
bàn băng học sinh được mượn từ một trường tiểu học gần đó đem về, dùng tiệc trà,
chúc mừng, rồi hát ca, đọc thơ, kể chuyện vui… Nhà thơ Giang Nam xung phong lên
trước đọc liền 3 bài thơ tặng tiệc cưới, xong quay sang bắt tay chúc mừng cô
dâu chú rể. Lần lượt nhà thơ Đào Xuân Quý, nhà văn Nguyễn Gia Nùng, nhà thơ
Triệu Phong cũng vậy. Riêng họa sĩ Thanh Hồ vẽ sẵn chân dung phác họa tôi tặng
trong dịp này. Rất vui!
Những văn
nghệ sĩ ngày ấy bao năm qua đã lần lượt lãng du vào cõi vĩnh hằng. Nay nhà thơ
Giang Nam là người cuối cùng ra đi trong số văn nhân thi sĩ ở Nha Trang đến Phú
Yên dự ngày vui của tôi cách nay gần 40 năm. Tôi xin mạn phép thay đôi chỗ
trong câu thơ ở cuối bài Quê Hương để
tiễn ông, mong hương linh người tha thứ. “Nay
tôi yêu quê hương vì trong nắm đất/ Có một phần xương thịt của Giang Nam”.
Nguyễn Tường Văn
‘*’ Nhà thơ
Giang Nam mất ngày 23-01-2023 tại Nha Trang, thọ 95 tuổi.
Đ/c: thôn Đông Phước, xã Hòa An, huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên. Dđ: 098475
BÀI MỚI ĐẮNG
Truyện ngắn: BÊN CÁNH GÀ CHÁNH ĐIỆN _ NGUYỄN HẢI ĐĂNG
Bên cánh gà chánh điện phần 1 BÊN CÁNH GÀ CHÁNH ĐIỆN Xe dừng lại với tiếng xột xoạt trên mặt đường, như bao chuyến xe đã ghé qua từ thuở ...
-
Chuyện của chị Linh giò chả (Truyện ngắn Đặng Xuân Xuyến) * Hôm trước, lâu rồi, chả hiểu duyên cớ gì, chị Linh giò chả tự dưng “bắt ...
-
NHỮNG NGƯỜI PHỤ NỮ Tôi lên Cà Mau, hè này coi thi học sinh t.h.p.t tốt nghiệp. Làm giáo viên thì phải coi thi làm nhiệm vụ bắt ...




.jpg)