Chủ Nhật, 31 tháng 1, 2021

8 TIÊU CHUẨN CỦA 1 NGƯỜI TỐT

 8 TIÊU CHUẨN CỦA 1 NGƯỜI TỐT

Dưới đây là 8 tiêu chuẩn của một người tốt, hãy thử đối chiếu xem bạn có bao nhiêu rồi nhé!
1. Phúc hậu
Cổ nhân có câu: “Hậu đức tải vật”, có nghĩa là nói con người nếu có đức hạnh, thì không có việc gì là không thể gánh vác được, ngược lại, người mà không có nhiều đức thì không thể gánh vác được những công việc to lớn.
Câu danh ngôn này khuyên răn chúng ta rằng, phải vui vẻ khi chịu thiệt thòi, nghĩ cho người khác nhiều hơn, thì mới có thể đạt được thành công trong sự nghiệp. Đồng thời, đức nhiều là phúc, làm người phải hiền hậu, thì mới có được sự tôn trọng của người khác.
2. Lương thiện
Lương thiện là một yếu tố quan trọng của người có nhân phẩm tốt. Một người mà luôn mang trong mình một trái tim từ bi, mới có thể khiến người khác kính trọng. Cần phải giữ nhiều thiện tâm, làm nhiều việc thiện. Chỉ có như thế, thì mới có thể làm một con người đường đường chính chính, để đạt được đến cảnh giới “ban ngày không làm chuyện khuất tất, ban đêm không sợ ma gõ cửa”.
3. Giữ chữ tín
Một người nếu như không có lòng tin, thì việc gì cũng không thể làm tốt. Sự giao tế giữa người với người, điều quan trọng là phải có được sự tin tưởng. Cổ nhân coi việc giữ chữ tín là một phẩm hạnh rất quan trọng của con người, rất xem trọng việc đã hứa thì nhất định phải thực hiện, đã làm thì nhất định phải làm đến cùng.
Người ở trong xã hội này không coi trọng chữ tín, thì khẳng định là không ai muốn giao tiếp với bạn, càng không thể đạt được sự tin tưởng của người khác.
4. Khoan dung
Người ta thường nói rằng, khoang dung chính là vĩ đại. Con người phải có một tấm lòng khoan dung, có thể chấp nhận những việc khó chấp nhận nhất của thiên hạ. Chúng ta phải học được cách khoan dung với những người không có cùng quan điểm với chúng ta, đặc biệt là những người có mâu thuẫn với chúng ta.
Khoan dung với người khác, trên thực tế là khai mở sự trói buộc trong tâm hồn của chúng ta, nếu không thì chỉ có thể mang đến áp lực tinh thần lên bản thân, người bị thiệt thòi sẽ chính là bản thân mình. Phải thừa nhận rằng giữa người với người có rất nhiều sự khác biệt, hãy nhìn vào những ưu điểm của người khác, khoan dung với những khiếm khuyết của họ.
5. Thành thật
Thành thật là điều cơ bản để làm người, thành thật là một đức tính tốt. Người không thành thật, không ai muốn tiếp xúc . “Muốn gánh vác trách nhiệm to lớn thì trước hết phải là người thành thật”. Làm người phải thật thà và chân thật, thì mới có được sự tôn trọng của người khác, thì mới có thể đứng vững trong xã hội.
Chúng ta khi đối đãi với công việc cũng như vậy, cho dù là công việc báo cáo, phản ánh sự việc, hày là công việc gì đi chăng nữa, cũng đều phải thực sự cầu thị, tuyệt đối không được gian lận, thất tín với người.
6. Khiêm tốn
Khiêm tốn là một đức tính quan trọng tạo nên nhân cách con người. Cho dù là trong hoàn cảnh nào đi chăng nữa, thì hãy hạ thấp mình một chút, đợi chờ là việc tốt. Một mặt là có lợi cho sự phát triển của bản thân, mặt khác nó sẽ có lợi khi chúng ta hợp tác với người khác.
Cổ nhân thường nói: “Cho dù làm hạng người gì, thì cũng không được nịnh nọt, tham tiền tham của; Cho dù là làm công việc gì, thì cũng không được nhất thời, qua quýt.” Làm bất kể việc gì, không nên cho rằng bản thân mình là người có đức hạnh tài giỏi, là người không thể thiếu, như thế không tốt, dễ dẫn đến sự chán ghét của người đời. Người khiêm tốn thì ai ai cũng yêu mến.
7. Chính trực
Một người không nhất thiết có thể trở thành người vĩ đại, nhưng hoàn toàn có thể làm một con người chính trực. Một người chính trực, thì trước hết phải làm việc theo lương tâm.
Làm việc gì cũng xuất phát từ lương tâm, thì đó tuyệt đối là một người cao thượng, một người chính trực. Con người cũng nên có quan niệm đúng sai rõ ràng, gặp phải vấn đề đều phải có kiến giải của bản thân, tuyệt đối không thể bạn tôi, tôi tốt, mọi người đều tốt. Phải kiên trì theo chân lý, không thể vì quan hệ tốt mà sai lại nói thành đúng, cũng không thể vì quan hệ không tốt mà đúng lại nói thành sai.
8. Kiên trì
Làm việc gì đều phải có sự quyết tâm, bền lòng và nhẫn lại, phải có tinh thần làm việc đến cùng, đây là mấu chốt của sự thành công, nếu không thì chỉ là kẻ vô tích sự. Người xưa thường nói, “nước chảy đá mòn, mài sắt thành kim”, chính là muốn nói nên đạo lý làm người. Những người có tính kiên trì này một khi xác định được mục tiêu, sẽ tiến thẳng về phía trước, vì thế mới có thể thành công. Ngược lại, có người được cho là thông minh, do não bộ hoạt động linh hoạt, làm việc thường nhìn trái nhìn phải, nghĩ đông nghĩ tây, kết quả là không đạt được việc gì.
Lời kết
Con người trong thế gian đều nên hội tụ 8 yếu tố này, chỉ có không ngừng đề cao tu dưỡng bản thân, thì con người mới có thể đạt đến cảnh giới tối cao.
31/01/2021
TNT
Hình ảnh có thể có: một hoặc nhiều người, ngọn lửa, đêm và nến

GIÁO DỤC MIỀN NAM TRƯỚC 1975: TRIẾT LÝ GIÁO DỤC : NHÂN BẢN - DÂN TỘC - KHAI PHÓNG

 GIÁO DỤC MIỀN NAM TRƯỚC 1975

(Đừng “Địch – Ta” mãi! Đây là di sản của Người Việt Nam mình. Thấy cái gì hay thì học. Sao đi học của mấy nước Thái Lan, Hàn quốc, Singgapore... mà di sản của nước mình thì không học?!)
TRIẾT LÝ GIÁO DỤC: NHÂN BẢN – DÂN TỘC – KHAI PHÓNG
LƯỢC SỬ HỆ THỐNG GIÁO DỤC TẠI VIỆT NAM TRƯỚC NĂM 1975
Giáo dục Việt Nam Cộng hòa là nền giáo dục Việt Nam dưới chính thể Việt Nam Cộng Hòa. Triết lý giáo dục của Việt Nam Cộng hòa là nhân bản, dân tộc, và khai phóng. Hiến pháp Việt Nam Cộng Hòa nhấn mạnh quyền tự do giáo dục, và cho rằng “nền giáo dục cơ bản có tính cách cưỡng bách và miễn phí”, “nền giáo dục đại học được tự trị”, và “những người có khả năng mà không có phương tiện sẽ được nâng đỡ để theo đuổi học vấn”. Hệ thống giáo dục Việt Nam Cộng hòa gồm tiểu học, trung học, và đại học, cùng với một mạng lưới các cơ sở giáo dục công lập, dân lập, và tư thục ở cả ba bậc học và hệ thống tổ chức quản trị từ trung ương cho tới địa phương.
Tổng quan
Từ năm 1917, chính quyền thuộc địa Pháp ở Việt Nam đã có một hệ thống giáo dục thống nhất cho cả ba miền Nam, Trung, Bắc, và cả Lào cùng Campuchia. Hệ thống giáo dục thời Pháp thuộc có ba bậc: tiểu học, trung học, và đại học. Chương trình học là chương trình của Pháp, với một chút sửa đổi nhỏ áp dụng cho các cơ sở giáo dục ở Việt Nam, dùng tiếng Pháp làm ngôn ngữ chính, tiếng Việt chỉ là ngôn ngữ phụ. Sau khi Việt Nam tuyên bố độc lập vào năm 1945, chương trình học của Việt Nam – còn gọi là chương trình Hoàng Xuân Hãn (ban hành thời chính phủ Trần Trọng Kim – được đem ra áp dụng ở miền Trung và miền Bắc. Riêng ở miền Nam, vì có sự trở lại của người Pháp nên chương trình Pháp vẫn còn tiếp tục cho đến giữa thập niên 1950. Đến thời Đệ Nhất Cộng Hòa thì chương trình Việt mới được áp dụng ở miền Nam để thay thế cho chương trình Pháp. Cũng từ đây, các nhà lãnh đạo giáo dục Việt Nam mới có cơ hội đóng vai trò lãnh đạo thực sự của mình.
Ngay từ những ngày đầu hình thành nền Đệ Nhất Cộng Hòa, những người làm công tác giáo dục ở miền Nam đã xây dựng được nền móng quan trọng cho nền giáo dục quốc gia, tìm ra câu trả lời cho những vấn đề giáo dục cốt yếu. Những vấn đề đó là: triết lý giáo dục, mục tiêu giáo dục, chương trình học, tài liệu giáo khoa và phương tiện học tập, vai trò của nhà giáo, cơ sở vật chất và trang thiết bị trường học, đánh giá kết quả học tập, và tổ chức quản trị. Nhìn chung, người ta thấy mô hình giáo dục ở Miền Nam Việt Nam trong những năm 1970 có khuynh hướng xa dần ảnh hưởng của Pháp vốn chú trọng đào tạo một số ít phần tử ưu tú trong xã hội và có khuynh hướng thiên về lý thuyết, để chấp nhận mô hình giáo dục Hoa Kỳ có tính cách đại chúng và thực tiễn. Năm học 1973-1974, Việt Nam Cộng Hòa có một phần năm dân số là học sinh và sinh viên đang đi học trong các cơ sở giáo dục. Con số này bao gồm 3.101.560 học sinh tiểu học, 1.091.779 học sinh trung học, và 101.454 sinh viên đại học; số người biết đọc biết viết ước tính khoảng 70% dân số. Đến năm 1975, tổng số sinh viên trong các viện đại học ở miền Nam là khoảng 150.000 người (không tính các sinh viên theo học ở Học viện Hành Chính Quốc Gia và ở các trường đại học cộng đồng).
Mặc dù tồn tại chỉ trong 20 năm (từ 1955 đến 1975), bị ảnh hưởng nặng nề bởi chiến tranh và những bất ổn chính trị thường xảy ra, phần thì ngân sách eo hẹp do phần lớn ngân sách quốc gia phải dành cho quốc phòng và nội vụ (trên 40% ngân sách quốc gia dành cho quốc phòng, khoảng 13% cho nội vụ, chỉ khoảng 7-7,5% cho giáo dục), nền giáo dục Việt Nam Cộng Hòa đã phát triển vượt bậc, đáp ứng được nhu cầu gia tăng nhanh chóng của người dân, đào tạo được một lớp người có học vấn và có khả năng chuyên môn đóng góp vào việc xây dựng quốc gia và tạo được sự nghiệp vững chắc ngay cả ở các quốc gia phát triển. Kết quả này có được là nhờ các nhà giáo có ý thức rõ ràng về sứ mạng giáo dục, có ý thức trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp, đã sống cuộc sống khiêm nhường để đóng góp trọn vẹn cho nghề nghiệp, nhờ nhiều bậc phụ huynh đã đóng góp công sức cho việc xây dựng nền giáo dục quốc gia, và nhờ những nhà lãnh đạo giáo dục đã có những ý tưởng, sáng kiến, và nỗ lực mang lại sự tiến bộ cho nền giáo dục ở Miền Nam Việt Nam.
Triết lý giáo dục
Năm 1958, dưới thời Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Trần Hựu Thế, Việt Nam Cộng Hòa nhóm họp Đại hội Giáo dục Quốc gia (lần I) tại Sài Gòn. Đại hội này quy tụ nhiều phụ huynh học sinh, thân hào nhân sĩ, học giả, đại diện của quân đội, chính quyền và các tổ chức quần chúng, đại diện ngành văn hóa và giáo dục các cấp từ tiểu học đến đại học, từ phổ thông đến kỹ thuật… Ba nguyên tắc “NHÂN BẢN” (humanistic), “DÂN TỘC” (nationalistic), và “KHAI PHÓNG” được chính thức hóa ở hội nghị này. Đây là những nguyên tắc làm nền tảng cho triết lý giáo dục của Việt Nam Cộng Hòa, được ghi cụ thể trong tài liệu Những nguyên tắc căn bản do Bộ Quốc gia Giáo dục ấn hành năm 1959 và sau đó trong Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa (1967).
1/ Giáo dục Việt Nam là giáo dục nhân bản. Triết lý nhân bản chủ trương con người có địa vị quan trọng trong thế gian này; lấy con người làm gốc, lấy cuộc sống của con người trong cuộc đời này làm căn bản; xem con người như một cứu cánh chứ không phải như một phương tiện hay công cụ phục vụ cho mục tiêu của bất cứ cá nhân, đảng phái, hay tổ chức nào khác. Triết lý nhân bản chấp nhận có sự khác biệt giữa các cá nhân, nhưng không chấp nhận việc sử dụng sự khác biệt đó để đánh giá con người, và không chấp nhận sự kỳ thị hay phân biệt giàu nghèo, địa phương, tôn giáo, chủng tộc… Với triết lý nhân bản, mọi người có giá trị như nhau và đều có quyền được hưởng những cơ hội đồng đều về giáo dục.
2/ Giáo dục Việt Nam là giáo dục dân tộc. Giáo dục tôn trọng giá trị truyền thống của dân tộc trong mọi sinh hoạt liên hệ tới gia đình, nghề nghiệp, và quốc gia. Giáo dục phải bảo tồn và phát huy được những tinh hoa hay những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc. Dân tộc tính trong văn hóa cần phải được các thế hệ biết đến, bảo tồn và phát huy, để không bị mất đi hay tan biến trong những nền văn hóa khác.
3/ Giáo dục Việt Nam là giáo dục khai phóng. Tinh thần dân tộc không nhất thiết phải bảo thủ, không nhất thiết phải đóng cửa. Ngược lại, giáo dục phải mở rộng, tiếp nhận những kiến thức khoa học kỹ thuật tân tiến trên thế giới, tiếp nhận tinh thần dân chủ, phát triển xã hội, giá trị văn hóa nhân loại để góp phần vào việc hiện đại hóa quốc gia và xã hội, làm cho xã hội tiến bộ tiếp cận với văn minh thế giới.
Từ những nguyên tắc căn bản ở trên, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đề ra những MỤC TIÊU chính sau đây cho nền giáo dục của mình. Những mục tiêu này được đề ra là để nhằm trả lời cho câu hỏi: Sau khi nhận được sự giáo dục, những người đi học sẽ trở nên người như thế nào đối với cá nhân mình, đối với gia đình, quốc gia, xã hội, và nhân loại.
– Phát triển toàn diện mỗi cá nhân. Trong tinh thần tôn trọng nhân cách và giá trị của cá nhân học sinh, giáo dục hướng vào việc phát triển toàn diện mỗi cá nhân theo bản tính tự nhiên của mỗi người và theo những quy luật phát triển tự nhiên cả về thể chất lẫn tâm lý. Nhân cách và khả năng riêng của học sinh được lưu ý đúng mức. Cung cấp cho học sinh đầy đủ thông tin và dữ kiện để học sinh phán đoán, lựa chọn; không che giấu thông tin hay chỉ cung cấp những thông tin chọn lọc thiếu trung thực theo một chủ trương, hướng đi định sẵn nào.
– Phát triển tinh thần quốc gia ở mỗi học sinh. Điều này thực hiện bằng cách: giúp học sinh hiểu biết hoàn cảnh xã hội, môi trường sống, và lối sống của người dân; giúp học sinh hiểu biết lịch sử nước nhà, yêu thương xứ sở mình, ca ngợi tinh thần đoàn kết, tranh đấu của người dân trong việc chống ngoại xâm bảo vệ tổ quốc; giúp học sinh học tiếng Việt và sử dụng tiếng Việt một cách có hiệu quả; giúp học sinh nhận biết nét đẹp của quê hương xứ sở, những tài nguyên phong phú của quốc gia, những phẩm hạnh truyền thống của dân tộc; giúp học sinh bảo tồn những truyền thống tốt đẹp, những phong tục giá trị của quốc gia; giúp học sinh có tinh thần tự tin, tự lực, và tự lập.
– Phát triển tinh thần dân chủ và tinh thần khoa học. Điều này thực hiện bằng cách: giúp học sinh tổ chức những nhóm làm việc độc lập qua đó phát triển tinh thần cộng đồng và ý thức tập thể; giúp học sinh phát triển óc phán đoán với tinh thần trách nhiệm và kỷ luật; giúp phát triển tính tò mò và tinh thần khoa học; giúp học sinh có khả năng tiếp nhận những giá trị văn hóa của nhân loại.
GIÁO DỤC TIỂU HỌC
Bậc tiểu học thời Việt Nam Cộng hòa bao gồm năm lớp, từ lớp 1 đến lớp 5 (thời Đệ Nhất Cộng Hòa gọi là lớp Năm đến lớp Nhất). Theo quy định của hiến pháp, giáo dục tiểu học là giáo dục phổ cập (bắt buộc). Từ thời Đệ Nhất Cộng Hòa đã có luật quy định trẻ em phải đi học ít nhất ba năm tiểu học. Mỗi năm học sinh phải thi để lên lớp. Ai thi trượt phải học “đúp”, tức học lại lớp đó. Các trường công lập đều hoàn toàn miễn phí, không thu học phí và các khoản lệ phí khác. Học sinh tiểu học chỉ học một buổi, sáu ngày mỗi tuần. Theo quy định, một ngày được chia ra 2 ca học; ca học buổi sáng và ca học buổi chiều. Vào đầu thập niên 1970, Việt Nam Cộng Hòa có 2,5 triệu học sinh tiểu học, chiếm hơn 80% tổng số thiếu niên từ 6 đến 11 tuổi; 5.208 trường tiểu học (chưa kể các cơ sở ở Phú Bổn, Vĩnh Long và Sa Đéc).
Tất cả trẻ em từ 6 tuổi đều được nhận vào lớp Một để bắt đầu bậc tiểu học. Phụ huynh có thể chọn lựa cho con em vào học miễn phí cho hết bậc tiểu học trong các trường công lập hay tốn học phí (tùy trường) tại các trường tiểu học tư thục. Lớp 1 (trước năm 1967 gọi là lớp Năm) cấp tiểu học mỗi tuần học 25 giờ, trong đó 9,5 giờ môn quốc văn; 2 giờ bổn phận công dân và đức dục (còn gọi là lớp Công dân giáo dục). Lớp 2 (trước năm 1967 gọi là lớp Tư), quốc văn giảm còn 8 tiếng nhưng thêm 2 giờ sử ký và địa lý. Lớp 3 trở lên thì ba môn quốc văn, công dân và sử địa chiếm 12-13 tiếng mỗi tuần. Một năm học kéo dài chín tháng, nghỉ ba tháng hè. Trong năm học có khoảng 10 ngày nghỉ lễ (thông thường vào những ngày áp Tết).
GIÁO DỤC TRUNG HỌC
Tính đến đầu những năm 1970, Việt Nam Cộng hòa có hơn 550.000 học sinh trung học, tức hơn 20% tổng số thanh thiếu niên ở lứa tuổi từ 12 đến 18; có 534 trường trung học (chưa kể các cơ sở ở Vĩnh Long và Sa Đéc). Đến năm 1975 thì có khoảng 900.000 học sinh ở các trường trung học công lập. Các trường trung học công lập nổi tiếng thời đó có Petruc Ký, Chu Văn An, Võ Trường Toản, Trưng Vương, Gia Long, Lê Quý Đôn (Sài Gòn) tiền thân là Trường Chasseloup Laubat, Quốc Học (Huế), Trường Trung học Phan Chu Trinh (Đà Nẵng), Nguyễn Đình Chiểu (Mỹ Tho), Phan Thanh Giản (Cần Thơ)… Các trường công lập đều hoàn toàn miễn phí, không thu học phí và các khoản lệ phí khác.
1- Trung học đệ nhất cấp
Trung học đệ nhất cấp bao gồm từ lớp 6 đến lớp 9 (trước năm 1971 gọi là lớp đệ thất đến đệ tứ), tương đương trung học cơ sở hiện nay. Từ tiểu học phải thi vào trung học đệ nhất cấp. Đậu vào trường trung học công lập không dễ . Các trường trung học công lập hàng năm đều tổ chức tuyển sinh vào lớp Đệ thất (từ năm 1971 gọi là lớp 6), kỳ thi có tính chọn lọc khá cao (tỷ số chung toàn quốc vào trường công khoảng 62%); tại một số trường danh tiếng tỷ lệ trúng tuyển thấp hơn 10%. Những học sinh không vào được trường công thì có thể nhập học trường tư thục nhưng phải trả học phí. Một năm học được chia thành hai “lục cá nguyệt” (hay “học kỳ”). Kể từ lớp 6, học sinh bắt đầu phải học ngoại ngữ, thường là tiếng Anh hay tiếng Pháp, môn Công dân giáo dục tiếp tục với lượng 2 giờ mỗi tuần. Từ năm 1966 trở đi, môn võ Vovinam (tức Việt Võ đạo) cũng được đưa vào giảng dạy ở một số trường. Học xong năm lớp 9 thì thi bằng Trung học đệ nhất cấp. Kỳ thi này thoạt tiên có hai phần: viết và vấn đáp. Năm 1959 bỏ phần vấn đáp rồi đến niên học 1966-67 thì Bộ Quốc gia Giáo dục bãi bỏ hẳn kỳ thi Trung học đệ nhất cấp.
2- Trung học đệ nhị cấp
Trung học đệ nhị cấp là các lớp 10, 11 và 12, trước 1971 gọi là đệ tam, đệ nhị và đệ nhất; tương đương trung học phổ thông hiện nay. Muốn vào thì phải đậu được bằng Trung học đệ nhất cấp, tức bằng Trung học cơ sở. Vào đệ nhị cấp, học sinh phải chọn học theo một trong bốn ban như dự bị vào đại học. Bốn ban thường gọi A, B, C, D theo thứ tự là Khoa học thực nghiệm hay còn gọi là ban vạn vật; ban toán; ban văn chương và ban văn chương cổ ngữ, thường là Hán văn. Ngoài ra học sinh cũng bắt đầu học thêm một ngoại ngữ thứ hai.Vào năm lớp 11 thì học sinh phải thi Tú tài I rồi thi Tú tài II năm lớp 12. Thể lệ này đến năm học 1972-1973 thì bỏ, chỉ thi một đợt tú tài phổ thông. Thí sinh phải thi tất cả các môn học được giảng dạy (trừ môn Thể dục), đề thi gồm các nội dung đã học, không có giới hạn hoặc bỏ bớt. Hình thức thi kể từ năm 1974 cũng bỏ lối viết bài luận (essay) mà theo lối thi trắc nghiệm có tính cách khách quan hơn. Mỗi năm có hai đợt thi Tú tài tổ chức vào khoảng tháng 6 và tháng 8. Tỷ lệ đậu Tú tài I (15-30%) và Tú tài II (30-45%), tại các trường công lập nhìn chung tỷ lệ đậu cao hơn trường tư thục do phần lớn học sinh đã được sàng lọc qua kỳ thi vào lớp 6 rồi. Do tỷ lệ đậu kỳ thi Tú tài khá thấp nên vào được đại học là một chuyện khó. Thí sinh đậu được xếp thành: Hạng “tối ưu” hay “ưu ban khen” (18/20 điểm trở lên), thí sinh đậu Tú tài II hạng tối ưu thường hiếm, mỗi năm toàn Việt Nam Cộng hòa chỉ một vài em đậu hạng này, có năm không có; hạng “ưu” (16/20 điểm trở lên); “bình” (14/20); “bình thứ” (12/20), và “thứ” (10/20). Một số trường trung học chia theo phái tính như ở Sài Gòn thì có trường Petrús Ký, Chu Văn An, Võ Trường Toản, Trường Hồ Ngọc Cẩn (Gia Định) và các trường Quốc học (Huế), Phan Chu Trinh (Đà Nẵng), Võ Tánh (Nha Trang), Trần Hưng Đạo (Đà Lạt), Nguyễn Đình Chiểu (Mỹ Tho) dành cho nam sinh và các trường Trưng Vương, Gia Long, Lê Văn Duyệt, Trường Nữ Trung học Đồng Khánh (Huế), Trường Nữ Trung học Bùi Thị Xuân (Đà Lạt), Trường Nữ Trung học Lê Ngọc Hân (Mỹ Tho), Trường Nữ Trung học Đoàn Thị Điểm (Cần Thơ) chỉ dành cho nữ sinh. Học sinh trung học lúc bấy giờ phải mặc đồng phục: nữ sinh thì áo dài trắng, quần trắng hay đen; còn nam sinh thì mặc áo sơ mi trắng, quần màu xanh dương.
Trung học tổng hợp
Chương trình giáo dục trung học tổng hợp (tiếng Anh: comprehensive high school) là một chương trình giáo dục thực tiễn phát sinh từ quan niệm giáo dục của triết gia John Dewey, sau này được nhà giáo dục người Mỹ là James B. Connant hệ thống hóa và đem áp dụng cho các trường trung học Hoa Kỳ Giáo dục trung học tổng hợp chú trọng đến khía cạnh thực tiễn và hướng nghiệp, đặt nặng vào các môn tư vấn, kinh tế gia đình, kinh doanh, công-kỹ nghệ, v.v… nhằm trang bị cho học sinh những kiến thức thực tiễn, giúp họ có thể mưu sinh sau khi rời trường trung học. Ở từng địa phương, phụ huynh học sinh và các nhà giáo có thể đề nghị những môn học đặc thù khả dĩ có thể đem ra ứng dụng ở nơi mình sinh sống. Thời Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hòa chính phủ cho thử nghiệm chương trình trung học tổng hợp, nhập đệ nhất và đệ nhị cấp lại với nhau. Học trình này được áp dụng đầu tiên tại Trường Trung học Kiểu mẫu Thủ Đức, sau đó mở rộng cho một số trường như Nguyễn An Ninh (cho nam sinh; 93 đường Trần Nhân Tông, Quận 10) và Sương Nguyệt Ánh (cho nữ sinh; góc đường Bà Hạt và Vĩnh Viễn, gần chùa Ấn Quang) ở Sài Gòn, và Chưởng Binh Lễ ở Long Xuyên.
Trung học kỹ thuật
Các trường trung học kỹ thuật nằm trong hệ thống giáo dục kỹ thuật, kết hợp việc dạy nghề với giáo dục phổ thông. Các học sinh trúng tuyển vào trung học kỹ thuật thường được cấp học bổng toàn phần hay bán phần. Mỗi tuần học 42 giờ; hai môn ngoại ngữ bắt buộc là tiếng Anh và tiếng Pháp. Các trường trung học kỹ thuật có mặt hầu hết ở các tỉnh, thành phố; ví dụ, công lập thì có Trường Trung học Kỹ thuật Cao Thắng (thành lập năm 1956; tiền thân là Trường Cơ khí Á châu thành lập năm 1906 ở Sài Gòn; nay là Trường Cao Đảng Kỹ Thuật Cao Thắng), Trường Trung học Nông Lâm Súc Bảo Lộc, Trường Trung học Kỹ thuật Nguyễn Trường Tộ; tư thục thì có Trường Trung học Kỹ thuật Don Bosco (do các tu sĩ Dòng Don Bosco thành lập năm 1956 ở Gia Định; nay là Trường Đại Học Công Nghiệp TPHCM, và Trường Kỹ thuật La San (do các tu sĩ Dòng La San thành lập tại Đà Lạt; nay là Trường Kỹ Thuật Tỉnh Lâm Đồng)
Các trường tư thục và Quốc Gia Nghĩa Tử
Các trường tư thục và Bồ đề
Ngoài hệ thống trường công lập của chính phủ là hệ thống trường tư thục. Vào năm 1964 các trường tư thục giáo dục 28% trẻ em tiểu học và 62% học sinh trung học. Đến niên học 1970-1971 thì trường tư thục đảm nhiệm 17,7% học sinh tiểu học và 77,6% học sinh trung học. Con số này Tính đến năm 1975, Việt Nam Cộng hòa có khoảng 1,2 triệu học sinh ghi danh học ở hơn 1.000 trường tư thục ở cả hai cấp tiểu học và trung học. Các trường tư thục nổi tiếng như Lasan Taberd dành cho nam sinh; Couvent des Oiseaux, Regina Pacis (Nữ vương Hòa bình), và Regina Mundi (Nữ vương Thế giới) dành cho nữ sinh. Bốn trường này nằm dưới sự điều hành của Giáo Hội Công Giáo. Trường Bác ái (Collège Fraternité) ở Chợ Quán với đa số học sinh là người Việt gốc Hoa cũng là một tư thục có tiếng do các thương hội người Hoa bảo trợ. Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất có hệ thống các trường tiểu học và trung học Bồ Đề ở nhiều tỉnh thành, tính đến năm 1970 trên toàn quốc có 137 trường Bồ đề, trong đó có 65 trường trung học với tổng số học sinh là 58.466. Ngoài ra còn có một số trường do chính phủ Pháp tài trợ như Marie Curie, Colette, và Saint-Exupéry. Kể từ năm 1956, tất cả các trường học tại Việt Nam, bất kể trường tư hay trường do ngoại quốc tài trợ, đều phải dạy một số giờ nhất định cho các môn quốc văn và lịch sử Việt Nam. Chương trình học chính trong các trường tư vẫn theo chương trình mà Bộ Quốc gia Giáo dục đã đề ra, dù có thể thêm một số giờ hoặc môn kiến thức thêm. Sau năm 1975, dưới chính thể Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Viêt Nam tổng cộng có 1.087 trường tư thục ở miền Nam Việt Nam bị giải thể và trở thành trường công (hầu hết mang tên mới).
Các trường Quốc Gia Nghĩa Tử
Ngoài hệ thống các trường công lập và tư thục kể trên, Việt Nam Cộng hòa còn có hệ thống thứ ba là các trường Quốc gia nghĩa tử. Tuy đây là trường công lập nhưng không đón nhận học sinh bình thường mà chỉ dành riêng cho các con em của tử sĩ hoặc thương phế binh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa như là một đặc ân của chính phủ giúp đỡ không chỉ phương tiện học hành mà cả việc nuôi dưỡng. Hệ thống này bắt đầu hoạt động từ năm 1963 ở Sài Gòn, sau khai triển thêm ở Đà Nẵng, Cần Thơ, Huế, và Biên Hòa. Tổng cộng có 7 cơ sở với hơn 10.000 học sinh. Loại trường này do Bộ Cựu Chiến binh quản lý chứ không phải Bộ Quốc gia Giáo dục, nhưng vẫn dùng giáo trình của Bộ Quốc gia Giáo dục. Chủ đích của các trường Quốc gia nghĩa tử là giáo dục phổ thông và hướng nghiệp cho các học sinh chứ không được huấn luyện quân sự. Vì vậy trường Quốc gia nghĩa tử khác trường Thiếu sinh quân. Sau năm 1975, các trường quốc gia nghĩa tử cũng bị giải thể.
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
Học sinh đậu được Tú tài II thì có thể ghi danh vào học ở một trong các viện Đại Học, trường Đại Học, và học viện trong nước. Tuy nhiên vì số chỗ trong một số trường rất có giới hạn nên học sinh phải dự một kỳ thi tuyển có tính chọn lọc rất cao; các trường này thường là Y, Dược, Nha, Kỹ Thuật, Quốc gia hành chánh và Sư Phạm. Việc tuyển chọn dựa trên khả năng của thí sinh, hoàn toàn không xét đến lý lịch gia đình. Sinh viên học trong các cơ sở giáo dục công lập thì không phải đóng tiền. Chỉ ở một vài trường hay phân khoa đại học thì sinh viên mới đóng lệ phí thi vào cuối năm học. Ngoài ra, chính phủ còn có những chương trình học bổng cho sinh viên.
Chương trình học trong các cơ sở giáo dục đại học được chia làm ba cấp. Cấp 1 (học 4 năm): Nếu theo hướng các ngành nhân văn, khoa học, v.v.. thì lấy bằng cử nhân (ví dụ: cử nhân Triết, cử nhân Toán…); nếu theo hướng các ngành chuyên nghiệp thì lấy bằng tốt nghiệp (ví dụ: bằng tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm, bằng tốt nghiệp Học viện Quốc gia Hành chánh…) hay bằng kỹ sư (ví dụ: kỹ sư Điện, kỹ sư Canh nông…). Cấp 2: học thêm 1-2 năm và thi lấy bằng cao học hay tiến sĩ đệ tam cấp (tiếng Pháp: docteur de troisième cycle; tương đương thạc sĩ ngày nay). Cấp 3: học thêm 2-3 năm và làm luận án thì lấy bằng tiến sĩ (tương đương với bằng Ph.D. của Hoa Kỳ). Riêng ngành y, vì phải có thời gian thực tập ở bệnh viện nên sau khi học xong chương trình dự bị y khoa phải học thêm 6 năm hay lâu hơn mới xong chương trình đại học.
Mô hình các cơ sở giáo dục đại học
Phần lớn các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam thời Việt Nam Cộng hòa được tổ chức theo mô hình viện đại học (theo Việt-Nam Tự-Điển của Hội khai trí Đức Tiến: Viện = Nơi, sở). Đây là mô hình tương tự như university của Hoa Kỳ và Tây Âu, cùng với nó là hệ thống đào tạo theo tín chỉ (tiếng Anh: credit). Mỗi viện đại học bao gồm nhiều phân khoa đại học (tiếng Anh: faculty; thường gọi tắt là phân khoa, ví dụ: Phân khoa Y, Phân khoa Sư phạm, Phân khoa Khoa học, v.v…) hoặc trường hay trường đại học (tiếng Anh: school hay college; ví dụ: Trường Đại học Nông nghiệp, Trường Đại học Kỹ thuật, v.v…). Trong mỗi phân khoa đại học hay trường đại học có các ngành (ví dụ: ngành Điện tử, ngành Công chánh, v.v…); về mặt tổ chức, mỗi ngành tương ứng với một ban (tiếng Anh: department; tương đương với đơn vị khoa hiện nay).
Về mặt tổ chức, viện đại học của Việt Nam Cộng hòa duy trì đường lối phi chính trị của các đại học Tây Phương. Các khoa trưởng của các trường phân khoa khong do Bộ Quốc gia Giáo dục bổ nhiệm mà do các giáo sư của Hội đồng Khoa bầu lên.
Trong hai thập niên 1960 và 1970, lúc hội nghị Hòa Bình đang diễn ra ở Paris, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa ráo riết lên kế hoạch tái thiết sau chiến tranh, với viễn cảnh là hòa bình sẽ lập lại ở Việt Nam, một chính phủ liên hiệp sẽ được thành lập, người lính từ các bên trở về cần được đào tạo để tái hòa nhập vào xã hội. Trong khuôn khổ kế hoạch đó, có hai mô hình cơ sở giáo dục đại học mới và mang tính thực tiễn được hình thành, đó là trường đại học cộng đồng và viện đại học bách khoa.
Trường đại học cộng đồng là một cơ sở giáo dục đại học sơ cấp và đa ngành; sinh viên học ở đây để chuyển tiếp lên học ở các viện đại học lớn, hoặc mở mang kiến thức, hoặc học nghề để ra làm việc. Các trường đại học cộng đồng được thành lập với sự tham gia đóng góp, xây dựng, và quản trị của địa phương nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển ở địa phương trong các mặt văn hóa, xã hội, và kinh tế. Khởi điểm của mô hình giáo dục này là một nghiên cứucủa ông Đỗ Bá Khê tiến hành vào năm 1969 mà các kết quả sau đó được đưa vào một luận án tiến sĩ trình ở Viện Đại học Southern California vào năm 1970 với tựa đề The Community College Concept: A Study of its Relevance to Postwar Reconstruction in Vietnam (Khái niệm trường đại học cộng đồng: Nghiên cứu sự phù hợp của nó với công cuộc tái thiết hậu chiến ở Việt Nam). Cơ sở đầu tiên được hình thành là Trường Đại học Cộng đồng Tiền Giang, thành lập vào năm1971 ở Định Tường sau khi mô hình giáo dục mới này được mang đi trình bày sâu rộng trong dân chúng.
Vào năm 1973, Viện Đại Học Bách Khoa Thủ Đức (tên tiếng Anh: Thủ Đức Polytechnic University, gọi tắt là Thủ Đức Poly) được thành lập. Đây là một cơ sở giáo dục đại học đa ngành, đa lĩnh vực, và chú trọng đến các ngành thực tiễn. Trong thời gian đầu, Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức có các trường đại học chuyên về Nộng Nghiệp, Kỹ Thuật, Giáo Dục, Khoa Học và Nhân Văn, Kinh tế và Quản trị, và Thiết kế đô thị; ngoài ra còn có trường đào tạo sau đại học. Theo kế hoạch, các cơ sở giáo dục đều được gom chung lại trong một khuôn viên rộng lớn, tạo một môi trường gợi hứng cho trí thức suy luận, với một cảnh trí được thiết kế nhằm nâng cao óc sáng tạo; quản lý hành chính tập trung để tăng hiệu năng và giảm chi phí.
Sau năm 1975, dưới chính thể Cộng Hoà xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam, toàn bộ các cơ sở giáo dục đại học thời Việt Nam Cộng hòa bị đổi tên và bị phân tán theo khuôn mẫu giáo dục của Liên Xô nên không còn mô hình theo đó các trường hay phân khoa đại học cấu thành viện đại học, mà mỗi trường trở nên biệt lập. Giáo dục đại học Việt Nam dưới các chính thể Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam theo mô hình phân tán ngành học. Các “trường đại học bách khoa” được thành lập dưới hai chính thể này ( Trường Đại Học Bách Khoa Hà Nội, Trường Đại học Bách Khoa TPHCM, và Trường Đại Học Bách Khoa Đà Nẵng) không giống như mô hình viện đại học bách khoa vì chỉ tập trung vào các ngành kỹ thuật Tương tự, mô hình “trường đại học tổng hợp” (Trường Đại Học Tổng Hợp Hà Nội, Trường Đại Học Tổng Hợp TPHCM và Trường Đại Học Tổng Hợp Huế) cũng chỉ tập trung vào các ngành khoa học cơ bản, chứ không mang tính chất toàn diện. Đến đầu thập niên 1990, chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam mới thành lập 2 “đại học” cấp quốc gia và 3 “đại học” cấp vùng theo mô hình gần giống như mô hình viện đại học. Vào tháng 10 năm 2009, một số đại biểu của Quốc Hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đưa ra đề nghị gọi tên các “đại học” cấp quốc gia và cấp vùng là “viện đại học”.
Các viện đại học công lập
Viện Đại Học Sài Gòn: Tiền thân là Viện Đại Học Đông Dương (1906), rồi Viện Đại Học Quốc Gia Việt Nam (1955) – còn có tên là Viện Đại học Quốc gia Sài Gòn. Năm 1957, Viện Đại học Quốc Gia Việt Nam đổi tên thành Viện Đại học Sài Gòn. Đây là viện đại học lớn nhất nước. Trước năm 1964, tiếng Việt lẫn tiếng Pháp được dùng để giảng dạy ở bậc đại học, nhưng sau đó thì chỉ dùng tiếng Việt mà thôi theo chính sách ngôn ngữ theo đuổi từ năm 1955. Riêng Trường Đại Học Y Khoa dùng cả tiếng Anh. Vào thời điểm năm 1970, hơn 70% sinh viên đại học trên toàn quốc ghi danh học ở Viện Đại học Sài Gòn.
Viện Đại Học Huế: Thành lập vào tháng 3 năm 1957 với 5 phân khoa đại học: Khoa học, Luật, Sư phạm, Văn khoa, và Y khoa.
Viện Đại Học Cần Thơ: Thành lập năm 1966 với 4 phân khoa đại học: Khoa học, Luật khoa & Khoa học Xã hội, Sư phạm, và Văn khoa.
Viện Đại Học Bách Khoa Thủ Đức: Thành lập năm 1974. Tiền thân là Trung tâm Quốc gia Kỹ thuật (1957), Học viện Quốc gia Kỹ thuật (1972).
Các viện đại học tư thục
Viện Đại Học Đà Lạt: Thành lập ngày 8 tháng 8 năm 1957. Một phần cơ sở của Viện Đại học Đà Lạt nguyên là một chủng viện của Giáo hội Công Giáo. Viện đại học này có 4 phân khoa đại học: Chính trị Kinh doanh, Khoa học, Sư phạm, Thần học và Văn khoa. Theo ước tính, từ năm 1957 đến 1975 viện đại học này đã giáo dục 26.551 người.
Viện Đại Học Vạn Hạnh: Thuộc khối Ấn Quang của Giáo hội phật giáo hội Việt Nam Thống Nhất; thành lập ngày 17 tháng 10 năm 1964 ở số 222 đường Trương Minh Giảng (sau 1975 là đường Lê Văn Sỹ), Quận 3, Sài Gòn-Gia Định với 5 phân khoa đại học: Giáo dục, Phật Học, Khoa Học Xã hội, Khoa học ứng dụng, và Văn học & Khoa học nhân văn. Vào đầu thập niên 1970, Vạn Hạnh có hơn 3.000 sinh viên.
Viện Đại Học Phương Nam: Được cấp giấy phép năm 1967 tọa lạc ở số 16 đường Trần Quốc Toản (sau năm 1975 là đường 3 Tháng Hai), Quận 10, Sài Gòn. Viện đại học này thuộc khối Việt Nam Quốc Tự của Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Giáo sư Lê Kim Ngân làm viện trưởng. Viện Đại học Phương Nam có 3 phân khoa đại học: Kinh tế-Thương mại, Ngoại ngữ, và Văn khoa. Vào thập niên 1970, viện đại học này có khoảng 750 sinh viên ghi danh.
Viện Đại Học An Giang (Hòa Hảo): Thành lập năm 1970 ở Long Xuyên với 5 phân khoa đại học: Văn khoa, Thương mại-Ngân hàng, Bang giao Quốc tế, Khoa học Quản trị và Sư phạm. Viện Đại học này trực thuộc Giáo hội Phật Giáo Hòa Hảo.
Viện Đại Học Cao Đài: Thành lập năm 1971 trên đường Ca Bảo Đạo ở Tây Ninh với 3 phân khoa đại học: Thần học Cao Đài, Nông lâm mục, và Sư phạm. Viện Đại học này trực thuộc Giáo hội Cao Đài
Viện Đại Học Minh Đức: Được cấp giấy phép năm 1972, trụ sở ở Sài Gòn với 5 phân khoa đại học: Kỹ thuật Canh nông, Khoa học Kỹ thuật, Kinh tế Thương mại, Nhân văn Nghệ thuật, và Y Khoa. Viện Đại học này do Giáo hội Công Giáo điều hành.
Các học viện và viện nghiên cứu
Học Viện Quốc Gia Hành Chính: Cơ sở này được thành lập từ thời Quốc Gia Việt Nam với văn bản ký ngày 29 tháng 5 năm 1950 nhằm đào tạo nhân sự chuyên môn trong lãnh vực công quyền như thuế vụ và ngoại giao. Trường sở đặt ở Đà Lạt; năm 1956 thì dời về Sài Gòn đặt ở đường Alexandre de Rhodes; năm 1958 thì chuyển về số 100 đường Trần Quốc Toản (gần góc đường Cao Thắng, sau năm 1975 là đường 3/2), Quận 10, Sài Gòn. Học viện này trực thuộc Phủ Thủ tướng hay Phủ Tổng thống, đến năm 1973 thì thuộc Phủ Tổng ủy Công vụ. Học viện có chương trình hai năm cao học, chia thành ba ban cao học, đốc sự, và tham sự.
Học Viện Quốc Gia Nông Nghiệp (1972-1974): tiền thân là Trường Cao đẳng Nông Lâm Súc (1962-1968), Trung tâm Quốc gia Nông nghiệp (1968-1972) rồi nhập vào Viện Đại học Bách Khoa Thủ Đức năm 1974.
Ngoài những học viện trên, Việt Nam Cộng hòa còn duy trì một số cơ quan nghiên cứu khoa học như Viện Pasteur Sài Gòn, Viện Pasteur Đà Lạt, Viện Pasteur Nha Trang, Viện Hải dương học Nha Trang, Viện Nguyên tử lực Đà Lạt, Viện Khảo cổ v.v. với những chuyên môn đặc biệt.
Các trường đại học cộng đồng
Bắt đầu từ năm 1971 chính phủ mở một số trường đại học cộng đồng (theo mô hình community college của Hoa Kỳ) như Trường Đại học Cộng đồng Tiền Giang ở Mỹ Tho, Duyên Hải ở Nha Trang, Quảng Đà ở Đà Nẵng (1974), và Long Hồ ở Vĩnh Long. Trường Đại học Cộng đồng Tiền Giang đặt trọng tâm vào nông nghiệp; Trường Đại học Cộng đồng Duyên Hải hướng về ngư nghiệp. Riêng Trường Long Hồ còn đang dang dở chưa hoàn tất thì chính thể Việt Nam Cộng hòa bị giải tán. Ở Sài Gòn thì có Trường Đại học Regina Pacis (khai giảng vào năm 1973) dành riêng cho nữ sinh do Công Giáo thành lập, và theo triết lý đại học cộng đồng.
Các trường kỹ thuật và huấn nghệ
Ngoài những trường đại học còn có hệ thống trường cao đẳng như Trường Bách khoa Phú Thọ và Trường Nông lâm súc. Một số những trường này sang thập niên 1970 được nâng lên tương đương với cấp đại học.
Trường quốc gia Nông Lâm mục: Thoạt tiên là Nha Khảo cứu Đông Dương thành lập năm 1930 ở B’lao, cơ sở này đến năm 1955 thì nâng lên thành Trường Quốc gia Nông lâm mục với chương trình học bốn năm. Diện tích vườn thực nghiệm rộng 200 ha chia thành những khu chăn nuôi gia súc, vườn cây công nghiệp, lúa thóc. Qua từng giai đoạn Trường đổi tên thành Trường Cao đẳng Nông Lâm Súc (1962-1968), Trung tâm Quốc gia Nông nghiệp (1968-1972), Học viện Quốc gia Nông nghiệp (1972-1974). Cuối cùng Trường Quốc gia Nông lâm mục được sáp nhập vào Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức (có trụ sở ở số 45 đường Cường Để, Quận 1, Sài Gòn). Trường còn có chi nhánh ở Huế, Cần Thơ, và Bình Dương.
Trung Tâm Kỹ Thuậc Phú Thọ: Thành lập năm 1957 thời Đệ nhất Cộng Hoà gồm bốn trường: Trường Cao đẳng Công chánh, Trường Cao đẳng Điện học, Trường Quốc gia Kỹ sư Công nghệ, và Trường Việt Nam Hàng hải. Năm 1968 lập thêm Trường Cao đẳng Hóa học. Năm 1972, Trung tâm Quốc gia Kỹ thuật đổi thành Học viện Quốc gia Kỹ thuật và đến năm 1974 thì nhập với Trường Đại học Nông nghiệp để tạo nên Viện Đại Học Bách Khoa Thủ Đức.
Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia: Thành lập năm 1966 để đào tạo nhân viên giữ an nnh và thi hành luật pháp.
Các trường nghệ thuật
Trường Quốc gia Âm Nhạc và Kịch Nghệ: Thành lập ngày 12 tháng 4 năm 1956 dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Chương trình học sau được bổ túc để bao gồm các bộ môn âm nhạc cổ điễn Tây Phương và truyền thống Việt Nam cùng kịch nghệ.
Trường Quốc Gia Âm Nhạc Huế: Thành lập năm 1962 ở cố đô Huế chủ yếu dạy âm nhạc cổ truyền Việt Nam, dùng nhà hát Duyệt Thị Đường trong Kinh Thành Huế làm nơi giảng dạy.
Trường Quốc Gia Trang Trí Mỹ Thuật: thành lập năm 1971, trên cơ sở nâng cấp Trường Trung học Trang trí Mỹ thuật Gia Định (tiền thân là Trường Mỹ nghệ Gia Định, thành lập năm 1940).
Trường Quốc Gia Cao Đẳng Mỹ Thuật Sài Gòn: thành lập sau năm 1954; chuyên đào tạo về nghệ thuật tạo hình với các chương trình học 3 và 7 năm. Vị giám đốc đầu tiên là họa sĩ Lê Văn Đệ (1954-1966).
Sinh viên du học ngoại quốc
Một số sinh viên bậc đại học được cấp giấy phép đi du học ở nước ngoài. Hai quốc gia thu nhận nhiều sinh viên Việt Nam vào năm 1964 là Pháp (1.522) và Hoa Kỳ (399), đa số theo học các ngành khoa học xã hội và kỹ sư.
(Nguồn tin: lasan.org)

Thứ Tư, 27 tháng 1, 2021

LIÊN HỆ THI PHÁP BÀI "NGƯỜI ĐÀN BÀ TRẮNG "CỦA PHẠM NGỌC THÁI ...- NGUYỄN THỊ HOÀNG

 LIÊN HỆ THI PHÁP BÀI “NGƯỜI ĐÀN BÀ TRẮNG” CỦA PHẠM NGỌC THÁI

                                    . Với “Đây thôn Vĩ Dạ” nổi tiếng của Hàn Mặc Tử

                                                             Nguyễn Thị Hoàng
                                                    Nguyên GV Trường ĐH Sư phạm

image.png

       Trong Tập 64 BÀI THƠ HAY, Nxb Hồng Đức 2020 – Bình luận về “Người đàn bà trắng”, nhà nghiên cứu văn học Trần Đức – Nguyên CB Viện ngôn ngữ và văn hóa dân gian đã viết: “Người Đàn Bà Trắng là một bài thơ tình hay, điển hình, viết theo thi pháp của dòng thơ tượng trưng hiện đại Châu Âu. Những yếu tố thơ tượng trưng xuyên suốt khắp bài…”.
      Trong bài viết này, tôi xin tập trung phân tích cho rõ nét thi pháp thơ tượng trưng của từng thi phẩm? Trước hết về "Người đàn bà trắng":

*  KHỔ THƠ ĐẦU -  Khắc họa chân dung "Người đàn bà trắng" (Tác giả gọi em là đàn bà, thực ra khi đó em vẫn là một thiếu nữ), anh đã lấy những hình ảnh của vũ trụ qua cảm xúc để miêu tả: Đôi mắt em đong những áng mây, huyền thẳm… Em đi, chiếc mũ vải trắng mềm đội lệch... mây trắng vờn bay trên mái tóc, v.v… Tất cả hình hài nàng đều được tả qua ấn tượng của nhà thơ.
      Điểm ở thi đàn xưa nay - Thi nhân Bích Khê tả ánh mắt của nàng mỹ nữ trong bài thơ “Tranh lõa thể” nổi tiếng:
              Mắt ngời châu rung ánh sáng nghê thường
    Xuân Diệu thì mô tả:
               Mắt em thăm thẳm như màu gió                 
     Đều là những hình ảnh tượng trưng.

*  CÁC KHỔ THƠ SAU - Hình ảnh người thiếu nữ hiện lên trong khung cảnh thiên nhiên rực rỡ: Em đi chao cả những hàng cây bên hồ; gió và nắng tắm lên tấm thân em; mái tóc xoã ngang vai… Tả cảnh nhưng tình thơ rất gợi cảm.
     Giờ đây trên con đường đã qua, bồi hồi trong ký ức... Nhà thơ chỉ còn nghe thấy tiếng gió táp, mưa sa – Thiên nhiên trở nên hoang dã trong qui luật bụi cát của thời gian: Đã đầy xác lá, xác ve... cùng xác gió, xác mưa…
    Khúc tình ca xưa êm đềm sống lại, trong tiếng gọi vọng của thi nhân:
                       Đường xưa đó về đây, em ơi!
     Hoặc là diễn tả về tố chất người đàn bà trong nàng, hình ảnh thơ được cách điệu:                
                       Chùm trinh em hát: Đấy chỗ thiên thai
                       Người đàn bà ai mà định nghĩa?
    Biểu tượng mô tả tuy ảo, trừu tượng nhưng gợi cảm, xoáy vào trong cảm thức người đọc: Đúng là người đàn bà không thể nào định nghĩa được,  trong vũ trụ và cuộc sống con người? Khái niệm thơ mở ra cả một thế giới về đàn bà. Khó có nhà thơ nào tả về người đàn bà sâu xa được như thế.

*   KHỔ THƠ NĂM -  Triết lý về cuộc sống và tình yêu. Thơ được viết như đời: Dù mối tình tan vỡ làm cho cả hai trái tim đều đau đớn? (vì sao tan vỡ thì ta không biết), nhưng: Em không thể trở thành hòn vọng phu mà hóa đá; Anh cũng không đầy mình làm cái anh chàng Trương Chi tương tư nàng Mỵ Nương rồi chết... Hoặc chung tình như nàng Mỵ Châu – chàng Trọng Thủy, nhảy xuống biển tự tử - Thần tượng thì đẹp, nhưng "cuộc sống và tình yêu" trở nên bi đát quá.
    Họ vẫn phải sống và tồn tại, dù suốt cuộc đời:
                     Dẫu hình hài khắc mãi tim nhau
     Khác với các tình thơ khác là thế, khi miêu tả sự chung thủy của các mối tình. Tuy vậy, cũng không làm cho ý nghĩa trong tình yêu của họ xấu đi.

*     KHỔ THƠ CUỐI – Nhà thơ khắc khoải nhớ về người thiếu nữ xưa? Hình ảnh thiên nhiên đã được nhân cách hóa: 
                        Những đêm sao buồn, những đêm gió khát  
       Hình ảnh “sao buồn, gió khát” đều mang ý nghĩa của thơ tượng trưng. Cuối cùng bài thơ đã được kết thúc bằng một câu hình tượng nhất về Nàng:
                       Người đàn bà ngậm cả vầng trăng
        Chữ “ngậm” mang màu sắc thơ siêu thực: “ngậm cả vầng trăng” – Một thiên tạo đang nép trong tấm thân người đàn bà… hay chính nàng là một vầng trăng !?
         “Người đàn bà trắng” là một thiên tình ca về "tình yêu và đàn bà" rất mẫu mực của nhà thơ Phạm Ngọc Thái, viết theo thi pháp thơ tượng trưng thật hay!
   

          Nguyễn Thị Hoàng  
      
                            THI PHÁP TRONG “ĐÂY THÔN VĨ DẠ” CỦA HÀN MẶC TỬ
     Nói về “Đây thôn Vĩ Dạ” (1938) của Hàn Mặc Tử, cũng được viết theo thi pháp của dòng thơ tượng trưng hiện đại châu Âu - Từ thuyết “tương ứng cảm quan” do Charles Baudelaire (1821-1867), nhà thơ Pháp bậc thầy khởi xướng: 
     Thơ diễn tả theo phương pháp loại suy qua quan hệ tương đồng giữa hai sự vật, thể hiện mọi sự vật bằng biểu tượng. Nghĩa là: giữa vật này với vật khác, giữa con người – cuộc sống với thiên nhiên, đều có thể thay thế nhau bằng biểu tượng. Để phản ảnh một cách tương ứng dựa vào cảm thụ từ các giác quan (gọi là cảm quan), hay từ trong tâm linh. Cho nên ngôn ngữ thi ca nhiều khi mang tính ảo…
     Tính chất tượng trưng giữa ảo và thực này cũng rất rõ trong bài thơ “Người đàn bà trắng” của Phạm Ngọc Thái. Tôi đã phân tích trên - Thực ra,  Hàn Mặc Tử chính là một trong những thần tượng thi ca của Phạm Ngọc Thái. Anh đã chịu ảnh hưởng về hình tượng tư duy thơ của ông khá nhiều. Không ít độc giả và các văn sĩ đã phát biểu rằng: Phạm Ngọc Thái là một phiên bản của thi nhân Hàn Mặc Tử. Đọc trong bài thơ "Khóc Hàn Mặc Tử cũng được in ở tập "64 BÀI THƠ HAY" thì rõ, anh đã viết:
                          Ngồi đọc Tử, tim vỡ toang máu đỏ
                          Tôi khóc biển, khóc trời xanh, khóc gió...
      Hay là:
                          Tử có nghe! Thơ Người tôi viết tiếp
                          Cúi lậy không gian cả tám phương
      Chính bài thơ "Người đàn bà trắng" đã chịu ảnh hưởng về thi pháp tượng trưng từ những bài thơ hay điển hình như "Đây thôn Vĩ Dạ" hay "Mùa xuân chín của thi nhân họ Hàn. Nếu tìm hiểu sâu về thi ca và cuộc đời Phạm Ngọc Thái thì thấy: Thơ anh không hề giống với Xuân Diệu, Huy Cận hay Thế Lữ... Mà ngoài Hàn Mặc Tử, anh còn chịu ảnh hưởng cả tính triết lý của thơ Chế Lan Viên -  Đối với các thi nhân nước ngoài, anh chịu ảnh hưởng nhiều nhất về giọng điệu thi ca của nhà thơ thiên tài Nga vĩ đại Pushkin, qua bản dịch của Thúy Toàn.
      Trở lại với bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”: Những hình ảnh tượng trưng theo thuyết “tương ứng cảm quan” đã xuyên suốt bài thơ của thi nhân - Thuộc trong ít bài thơ hay nhất thế kỷ XX. Sở dĩ thi phẩm được đánh giá tầm vóc cao như thế (mặc dù cả bài chỉ có 3 khổ, 12 câu), chính vì tính chất tượng trưng ảo huyền của nó. Như Chế Lan Viên từng có suy lý về thơ rằng:
                         Bên kia bờ hư ảo – Bờ thơ
                                              (trích Di cảo)
    Xin phân tích vài nét để làm rõ những yếu tố tượng trưng của bài thơ:

*   KHỔ THƠ ĐẦU – Bắt đầu vào thơ, thi nhân nhớ lại lời của Hoàng Cúc (người thôn nữ mà Người đã yêu): Sao anh không về chơi thôn Vĩ  /- Rồi cảnh quê được hiện lên:
                      Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
                      Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
                      Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
      Đó là cảnh thôn hương của nàng, như: hàng cau trong nắng mới; vườn ai mướt xanh như ngọc… Tất cả hiện lên từ trong hồi ức Người – Song, đến câu thơ cuối của khổ:
                     Lá trúc che ngang mặt chữ điền
     Cảnh ở đây không còn thuần túy chỉ là hồi ức nữa? Hình ảnh thơ qua tư duy thi nhân đã chứa ý nghĩa tượng trưng bên trong? 
    ... lá trúc” là biểu tượng về làng quê – “mặt chữ điền” theo cách nói của người Phương Đông, chính là biểu tượng cho gương mặt người đàn ông: “mặt chữ điền” - Ý của câu thơ: Thôn Vĩ với thi nhân giờ đây đã hoàn toàn cách biệt (che ngang), không còn gần gũi được như xưa - Nghĩa là, giữa ông và nàng đã hoàn toàn xa cách.
     Vậy là, cũng bằng hình ảnh tượng trưng nhưng cảnh thơ ôm bọc cả tâm tư, thế giới nội tâm ở bên trong: Con người, cuộc đời, tình yêu? Tất cả đã bị… “cắt ngang” – Chính nhờ những yếu tố tượng trưng sâu xa ấy, tầm vóc thơ càng thêm cao và hay.

* KHỔ THƠ HAI – Nói về duyên phận giữa thi nhân và nàng (chỉ là tình yêu đơn phương), giờ đây Người lại lâm bệnh hiểm nghèo, tình càng bẽ bàng, hẩm hiu - Hàn Mặc Tử đã sử dụng hình ảnh thiên nhiên làm tượng trưng, diễn tả về nỗi lòng Người:
                   Gió theo lối gió, mây đường mây,
                   Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay...
     Nghĩa là, em đi đường em… anh đường  anh... Duyên phận của đôi ta hết rồi, chỉ đến vậy thôi.  Lòng thi nhân buồn rầu ví như dòng nước trôi lặng lờ… hay những bông hoa bắp phật phờ lay bên sông – Chỉ là những hình ảnh tượng trưng mà thơ chứa chất nỗi tình.

*   KHỔ THƠ CUỐI - Xin nói một chút về hai câu thơ kết:
                       Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
                       Ai biết tình ai có đậm đà?
     “ sương khói mờ nhân ảnh” vừa là cảnh thực nơi thi nhân đang sống heo hút, khói sương… để chữa bệnh ở Gành Ráng, Qui Nhơn – Đồng thời cũng là hình ảnh tượng trưng về thân phận của Người lúc này: “ nhân ảnh mịt mờ như sương khói” – Tâm trạng thi nhân rơi vào nỗi xót xa, trước sự lãng quên của người đời. Sau đó Người buông ra một câu hỏi: Ai biết tình ai có đậm đà? /-  Liệu nàng còn nhớ đến ta không ? Bài thơ kết thúc ở đó. Thơ giàu cảm xúc, ai oán mà đằm thắm, chứa chan, thấm đầy lệ.
     Sở dĩ “Đây thôn Vĩ Dạ” trở thành một áng thi nổi tiếng và được đánh giá cao vậy, chính do nghệ thuật tinh hoa như thế! Ngôn ngữ, hình tượng thơ kết hợp nhuần nhuyễn trong thi pháp của dòng thơ tượng trưng “tương ứng cảm quan” mà tôi vừa nói trên.

                          MỐI TƯƠNG QUAN GIỮA HAI BÀI THƠ 
    Như tôi đã phân tích: “Người đàn bà trắng” (1994) của Phạm Ngọc Thái, cũng được viết theo thi pháp dòng thơ tượng trưng “tương ứng cảm quan” do nhà thơ Pháp Charles Baudelaire khởi xướng ấy! 
     Liên tưởng với thi pháp trong “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử: Hai bài thơ ra đời cách nhau nửa thế kỷ, nhưng cùng được viết theo thi pháp của một dòng thơ. Tuy nhiên, nỗi tình và cảm xúc trong mỗi bài có sự biến hóa khác nhau - Bởi vậy, từng thi phẩm lại có cái độc đáo và hay riêng...
       Vâng, người đời nay chỉ biết bình về mối tương quan của cả hai bài thơ như vậy. Phần còn lại xin dành để thời gian và hậu thế xem xét !? 

                                                                                                                                    Nguyễn Thị Hoàng      
 
       
             NGƯỜI ĐÀN BÀ TRẮNG

                     Người đàn bà đi trong mưa rơi
                     Chứa một trời thầm như hoa vậy...
                                         *              
Chiếc mũ trắng mềm em đội bầu trời
Khóm mây trắng bay nghiêng trôi trên tóc
Đôi mắt em đong những áng mây
Người đàn bà trắng!

Em đi,về... chao những hàng cây
Hồ gió thổi lệch vành mũ đội
Thấm đẫm mình em cả thềm nắng gội
Xõa ngang vai mái hất tơi bời.

Nỗi niềm thao thức
Những đêm trăng nước...
Chùm trinh em hát: Đấy chỗ thiên thai 
Người đàn bà, ai mà định nghĩa?

Đường xưa đó về đây, em ơi!
Những con đường đã đầy xác lá rơi
Xác ve, xác gió và xác của mưa...

Em không biến thành đá để hóa Vọng Phu
Anh cũng không làm chàng Trương Chi
                                  suốt đời chèo sông vắng
Ta không đi theo Con-đường-lông-ngỗng-trắng
Dẫu hình hài khắc mãi tim nhau.

Vết thương lòng không dễ đã lành đâu 
Những đêm sao buồn, những đêm gió khát
Khúc thơ tình anh lại viết về em 
Người đàn bà ngậm cả vầng trăng...

              PHẠM NGỌC THÁI
   (Trích tập 64 BÀI THƠ HAY, Nxb Hồng Đức 2020)
          

BÀI MỚI ĐẮNG

Truyện ngắn: BÊN CÁNH GÀ CHÁNH ĐIỆN _ NGUYỄN HẢI ĐĂNG

Bên cánh gà chánh điện phần 1 BÊN CÁNH GÀ CHÁNH ĐIỆN Xe dừng lại với tiếng xột xoạt trên mặt đường, như bao chuyến xe đã ghé qua từ thuở ...