Thứ Năm, 31 tháng 12, 2020

TẬP 64 BÀI THƠ HAY VÀ SỰ NGHIỆP THI CA CỦA PHẠM NGỌC THÁI ĐỐI VỚI NỀN VĂN HỌC VIỆT NAM - NGUYỄN THỊ HOÀNG

 TẬP "64 BÀI THƠ HAY" VÀ SỰ NGHIỆP THI CA PHẠM NGỌC THÁI

                                   . Đối với nền văn học Việt Nam

                                                          NGUYỄN THỊ HOÀNG
                                                    Nguyên GV Trường ĐH Sư phạm

image.png

      Nhà thơ Phạm Ngọc Thái vừa cho xuất bản tập "64 BÀI THƠ HAY", Nxb Hồng Đức 2020 - Theo anh nói, đây là tập thơ cuối cùng của sự nghiệp thi ca: Kết tụ lại những áng thi hay và hay nhất trong đời thơ anh. 
      Như thế là từ một chiến binh suốt gần mười năm chiến đấu trên chiến trường miền Nam. Trái qua hàng trăm trận đánh máu lửa ở mặt trận Tây Nguyên - Nam Bộ. Qua các Sư đoàn 312, 320, Trung đoàn pháo 40 Tây Nguyên.... Tới tận ngày 29-30.4.1975, tiến vào đánh căn cứ Đồng Dù của Mỹ rồi chiếm Sài Gòn. Kết thúc chiến tranh. Mỹ rút về nước. Bản thân anh cũng đã ba lần đổ máu ngoài mặt trận - Sau hòa bình trở về, anh tiếp tục học đại học ngoại thương và công tác trong ngành ngoại thương Việt Nam.
       Hơn ba mươi năm qua, vẫn phải cùng gia đình bươn bả cuộc sống vì miếng cơm, tấm áo - Anh vẫn dành tâm huyết để sáng tác văn học. Đến nay Phạm Ngọc Thái đã cho ra đời 13 tác phẩm văn chương các loại (thơ, phê bình văn học và tiểu thuyết), đồng thời sáng tác thành công 5 vở kịch sân khấu lớn, nhỏ. Cụ thể:

                   A.  HAI TIỂU THUYẾT
1.   Cuộc chiến Hà Nội 12 ngày đêm, 2019
2.   Bộ tiểu thuyết hai tập "Chiến tranh và tình yêu", 2020.
      Một bộ tiểu thuyết lịch sử có trữ lượng thời đại lớn, diễn tả lại thời kỳ chiến tranh đánh Mỹ trên cả hai miền Nam-Bắc. Từ những năm cuối thập kỷ 60 đến tận ngày kết thúc chiến tranh 30.4.1975. Phục lại cả cuộc chiến 12 ngày đêm 1972 thảm khốc, Mỹ đem B52 ném bom hủy diệt thành phố Hà Nội, hòng biến thủ đô trở về thời kỳ đồ đá. Bị cả loài người lên án! Cho tới khi Hiệp định Pa Ri được ký kết giữa Hoa Kỳ và Chính phủ nước VNDCCH tháng 1/1973. 

                   B.  NĂM KỊCH BẢN SÂN KHẤU
      Nhiều năm qua hoạt dộng trọng Hội nghệ sĩ sân khấu thủ đô, tham gia sáng tác cho các hội diễn sân khấu thành phố và cả nước, anh đã viết thành công năm vở kịch nói:
-   Người nhạc trưởng và dàn hợp xướng, kịch dài.
     (có thời gian đổi tên là vở "Số phận những hòn đá tảng" - Nay tác giả quyết định trở lại với tên của kịch bản ban đầu).
-   Bản án dưới mồ, kịch dài.
-   Mối tình hoa hồng bạch, kịch ngắn.
-   Chuyện ở quán gốc đa, kịch ngắn.
-   Cánh cửa quốc tế, kịch ngắn.
      Các vở kịch đều đủ khả năng công diễn trên các nhà hát kịch quốc gia.

                   C.   SỰ NGHIỆP THI CA
      Thi ca mới là chân trời khát vọng, tâm huyết và chân dung văn học căn bản của Phạm Ngọc Thái. Qua ba mươi năm đó, đến nay anh đã cho xuất bản đúng 11 tác phẩm thơ ca và bình luận. Mấy tập sách cốt lõi nhất là:
-  Phê bình và tiểu luận thi ca, 2013.
          PHẠM NGỌC THÁI
-  Chân dung nhà thơ lớn thời đại, 2014.
-  Cánh đại bàng của thi ca đương đại Việt Nam, 2019.
-  Tuyển thơ chọn lọc, đông 2019
-  Cha khóc con, xuân 2020
     và tập "64 BÀI THƠ HAY" vừa xuất bản.

                                VỀ TẬP "64 BÀI THƠ HAY"
      Chỉ có đôi bài thơ mới sáng tác, còn hầu hết đều được rút ra từ "Tuyển thơ chọn lọc", Nxb Hồng Đức 2019 - Một tuyển tập dày 368 trang sách với hơn 200 bài thơ tự do hiện đại các loại, chọn lọc trong suốt đời sáng tác thi ca của tác giả. 
     Khi "Tuyển thơ chọn lọc" Phạm Ngọc Thái ra đời - Anh đã có một lá thư tâm huyết đề ngày 26.12.2019 kèm theo tác phẩm, gửi tới ông Chủ tịch và Ban chấp hành HNVVN cùng ông Viện trưởng Viện văn học VN: Tác giả nhận định về tầm vóc tuyển thơ của mình. Lá thư có đoạn viết:
      "...Tôi tin chắc chắn rằng, trong dãy thi sơn có nhiều ngọn, tôi đã lên đến điểm đỉnh một ngọn "Hy-ma-lay-a" kỳ vĩ gì đó! Nhất là thơ tình của thi ca hiện đại Việt Nam".
      Hay là:
    "Trong văn hiển nghìn năm Thăng Long của nước nhà, nếu nền thơ cổ Việt Nam đã có một Nguyễn Du, thì thơ ca hiện đại Việt Nam cũng có Phạm Ngọc Thái".
      Vâng, xin thưa: Đỉnh ngọn thi sơn "Hy-ma-lay-a" kỳ vĩ mà tác giả nói đó chính là tập 64 BÀI THƠ HAY này.
      Tất nhiên, 64 bài thơ hay là hay theo các cung bậc khác nhau. Trong tập có số bài hay vọt lên thành những đài thi ca tuyệt hay! 
       Nhân đây xin dẫn dụ số bài thơ tuyệt hay trong thi đàn xưa nay. Không kể KIỀU bất hủ của Đại thi hào Nguyễn Du thuộc thể loại tiểu thuyết thơ - Những bài thơ ngắn tuyệt hay như: 
      Đèo Ngang của BHTQ;   Làm Lẽ, Cảnh Thu - Hồ Xuân Hương;   Thương Vợ - Tú Xương;   Thu Điếu - Nguyễn Khuyến;   Tràng Giang - Huy Cận;   Tranh Lõa Thể - Bích Khê;   Tương Tư - Nguyễn Bính;   Đây Thôn Vĩ Dạ, Mùa Xuân Chín, Bẽn Lẽn - Hàn Mặc Tử;   Hai Sắc Hoa Ti Gôn - TTKH.;   Thuyền Và Biển - Xuân Quỳnh....
      Thơ hay bậc nhất của nền văn hiến Thăng Long, phải là loại thơ có khả năng sống trường cửu tháng năm như thế! Vượt qua mọi thời đại - Đó là loại thơ thuộc hàng đẳng cấp cao nhất. Trong bài viết này, tôi cũng chỉ đề cập về loại thơ có khả năng tồn tại muôn đời ấy.
      Trong sự nghiệp thi ca Phạm Ngọc Thái dù là "thơ tình" hay "thơ đời", anh cũng chỉ sáng tác loại thơ có khả năng sống trường cửu tháng năm đó.
   

          Nguyễn Thị Hoàng  

                                      ĐÔI NÉT VỀ MẤY TÁC PHẨM
-   Năm 2014, tác giả cho xuất bản tập "Phạm Ngọc Thái chân dung nhà thơ lớn thời đại" - Tác phẩm dầy 372 trang, gồm 120 bài thơ tình và 34 bài viết của các tác giả khác bình thơ hay Phạm Ngọc Thái. Trong đó có bài của văn sĩ Nguyễn Đình Chúc - Người bình luận đương thời với tiểu luận nhan đề: "Phạm Ngọc Thái chân dung nhà thơ tình lớn của dân tộc": Tiểu luận dài 17 trang, từ tr.324 đến tr.340...
       Tập sách ra đời đến nay đã hơn sáu năm, giữa văn đàn của thủ đô ngàn năm Văn Việt - Tiếp đến mùa xuân 2019, tại Nxb Thanh niên, anh lại cho ra đời: "Phạm Ngọc Thái * Cánh đại bàng của thi ca đương đại VN": Các tập sách có tầm vóc đó của anh đến nay vẫn hiên ngang phát quang trong đương đại. Ngày càng được khẳng định chân giá trị của tác phẩm.

*   Xin lấy ví dụ. Chỉ là ví dụ thôi ạ: Chẳng hạn với hai nhà thơ có mác danh trong đương đại?
-  Nhà thơ Hữu Thỉnh: Nguyên chủ tịch bốn khóa HNVVN.
-  Nhà thơ Vũ Quần Phương: Nguyên chủ tịch Hội liên hiệp văn học nghệ thuật Thủ đô - Nguyên Tổng biên tập báo Người Hà Nội - Trưởng bạn thơ HNVVN. Người đã bạc đầu trên con đường văn chương và sáng tác thi ca. Ông đã xuất bản tới vài chục tác phẩm văn học các loại. Ra đời cả một tuyển thơ dày đến 6-700 trang sách.
      Các ngài có dám cho xuất bản một tác phẩm với tên đề "nhà thơ lớn" không? Chắc là không! Bởi vì nếu các ngài dám làm? Tôi e rằng: Chỉ sau khi ra sách, búa rìu dư luận sẽ ầm ĩ lên ngay. Các tay bút từ những nhà thơ kỳ cựu của đương đại sẽ lật cả đời thơ của các ngài lên mà phê phán, rằng: Các ngài ba hoa, phóng đại và huyễn tưởng...
      Tôi đã đọc thơ của các vị khá nhiều: Qua tác phẩm, trên mạng và ở thivien.net - Đấy, các ngài đều là những bậc mày râu, đấng trượng phu cả. Các ngài cứ để tay lên gáy mình, hỏi xem người nữ nhà giáo này nói có đúng không?

    Tôi nói điều đó chỉ để chứng minh rằng: Qua tháng năm "con đại bàng thi ca Phạm Ngọc Thái" vẫn tung cánh bay, ngày càng cao, càng bay xa đấy chứ !? Tác phẩm "Chân dung nhà thơ lớn thời đại" vẫn sừng sững giữa văn đàn của đất ngàn năm Thăng Long, mà khẳng định chân giá trị đích thực đối với nền văn học. Trên biển cả mênh mông đầy giông bão của xứ sở thi ca mịt mù kia... "thân cô - thế cô", cánh buồm đơn độc Phạm Ngọc Thái vẫn giương lên vững chãi mà lao về phía chân trời. 
     Nhất là khi "Tuyển thơ chọn lọc * Phạm Ngọc Thái", Nxb Hồng Đức 2019 ra đời, với hơn 200 tình thơ chọn ra trong đời thi ca tác giả: Đó chính là một tuyển thi ca thật sự tầm vóc...
      Phạm Ngọc Thái đơn thương độc mã, không ô lọng che dù, không người nâng đỡ - Người chiến binh đã qua cả một giai đoạn dài của cuộc chiến tranh xưa? Giờ trên con đường thiên lý của sự nghiệp thi ca, con chiến mã lại từng bước, từng bước... rồi phi lên tận đỉnh ngọn thi sơn của thi ca hiện đại Việt Nam. Vâng, đấy chính là tập "64 BÀI THƠ HAY" này:
                         Quan san muôn dặm sơn hà
                         Nguyễn Du người trước, tôi là người sau
                         Hôm nay rỏ chút lệ sầu
                         Thương Người rồi lại chạnh đau phận mình
                         Đời tàn, Thân nát. Áo manh.
                         Nghêu ngao vài chữ gửi tình bốn phương.
                                                  *
                         Nguyễn Du ơi! Đón tôi cùng
                         Một mai tôi sẽ lập hương khói thờ
                         Người Đường Cổ - Tôi Tân Thơ
                         Ngàn năm văn hiến xin thưa cùng Người.
                                   (Trích bài "Ta khóc cho ta" tr.54 tập "64 BÀI THƠ HAY")
      Tôi chỉ xin nói thêm chút nữa về:
 
                                           TẬP THƠ "CHA KHÓC CON"
                                                             Nxb Hồng Đức 2020
      Ngày 22.7.2019 đứa con trai yêu thương của gia đình nhà thơ mới 27 tuổi xuân bất ngờ bị đột quị và mất, để lại cho những người thân một niềm xót thương, đau đớn vô hạn.  Trong nỗi đau tận cùng của một người cha với đứa con yêu, thi sĩ đã trào ra những dòng thơ, những trang thơ khóc con vô cùng thống thiết:
                          Nước mắt cha rơi đẫm sơn hà
                          Gọi con tiếng vọng khắp gần xa
                          Con nghe tiếng mẹ ru trong gió
                          Thổi cả muôn hồn, vạn kiếp qua
      Khi anh cho đăng những bài thơ khóc con đó trên facebook cộng đồng, đã làm rung động hàng trăm trái tim và cảm thương của bè bạn gần xa - Nguyễn Khôi, nhà thơ cội gạo của đất Thăng Long (HNV Hà Nội), bình luận:
      "Thơ khóc nổi tiếng xưa có Đông Hồ khóc vợ, Tương Phố khóc chồng, Tam Nguyên Yên Đổ khóc con... Nay thi sĩ Hà Thành Phạm Ngọc Thái thống thiết khóc con, hy vọng lưu danh thiên cổ !?". 

      Nhà thơ đã tập hợp lại và cho xuất bản thành tác phẩm "Cha khóc con" - Đó là những trang thơ được viết bằng máu và nước mắt của một người cha. Với một ngòi bút thi ca lão luyện của một nhà thơ đã bạc tóc trên con đường sáng tác, một cảm xúc đau đớn tột cùng - Anh đã tạo thành một tác phẩm thơ khóc vô giá đối với nền văn học nước nhà.
      Trang chủ Trần Mỹ Giống, nhà nghiên cứu văn học của Hội văn học Nam Hà đã nhận xét về tập thơ "Cha khóc con:
-   Xuyên suốt tập thơ 45 bài là cảm xúc tình cảm sâu sắc của một người cha khóc con mệnh yểu với rất nhiều góc độ khác nhau, vô cùng cảm động.
      Xưa nay khóc cha, khóc vợ, khóc con... cũng đã được một số tác giả thể hiện bằng thơ, nhưng để có cả một xê-ri (45 bài) khóc con trong một tập, thì có lẽ đến giờ chỉ  có nhà thơ Phạm Ngọc Thái làm được... Những bài thơ đa tình, đa cung bậc, đa góc độ, khía cạnh mà bài nào cũng rung động người đọc...

     "Cha khóc con" là một thiên trường ca về thơ khóc: Hay hiếm độc, lạ... có một không hai, trên thi đàn xưa nay chưa từng thấy.
     Tâm nguyện của người cha thương con vô hạn ấy: Hy vọng tác phẩm "Cha khóc con" đó sẽ được lưu truyền trong hậu thếđể người con trai yêu quí và tội nghiệp của anh (trong thơ của một người cha) được sống mãi trong lòng yêu thương của nhân gian, quê hương, xứ sở.
     Cầu mong cho tâm ước nhà thơ được thỏa nguyện và tác phẩm thơ khóc của anh mai sau sống được mãi với sơn hà.
     Tôi xin dừng bài viết của mình ở đây.  
                                                                                                           Hà Nội, mùa đông Canh Tý, 2020
                                                                                                                       Nguyễn Thị Hoàng 


 

image.png

CHÙA LÁNG (HÀ NỘI ) THỜ THIỀN SƯ TỪ ĐẠO HẠNH - ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 CHÙA LÁNG (HÀ NỘI) 

THỜ THIỀN SƯ TỪ ĐẠO HẠNH

*

(trích từ VÀO CHÙA LỄ PHẬT NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT, 

Đặng Xuân Xuyến ; Văn Hóa Thông Tin ; 2006

 

Chùa Láng, hay còn gọi là Chiêu Thiền tự, thờ Thiền sư Từ Đạo Hạnh, tọa lạc ở cuối phố Chùa Láng, phường Láng Thượng, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội. 

Theo sách "Thiền Uyển tập anh", thiền sư Đạo Hạnh là con ông Từ Vinh và bà Tăng Thị ở làng Yên Lãng (tục gọi là làng Láng), là người thông minh, hiếu học, có chí lớn, tính tình phóng khoáng. Sau khi cha mất, Từ Đạo Hạnh chọn con đường đi Tây Vực để học đạo. Tuy không đến được Ấn Độ nhưng ông đã học được những phép thuật ở phái Mật Tông của Phật giáo. Khi trở về, ông đến tu tại núi Phật Tích (Hà Tây). Tại đây ông cho xây am Hương Hải, viện Phổ Đà, sau này trở thành chùa Thiên Phúc (còn gọi là chùa Thầy). Ông là người có kiến thức sâu rộng về đạo Phật, thường giảng đạo, làm thơ về cuộc sống, nay còn lại 4 bài in trong tập "Thơ văn Lý - Trần". Thiền sư còn được tôn là Tổ sư nghề hát chèo, nay còn lại bài giáo trò mà các vở chèo dân gian nào cũng hát ở phần mở đầu. Ông mất năm 1117 tại chùa Thiên Phúc, thân pháp còn được lưu giữ tại chùa và bị quân Minh đốt huỷ vào thế kỷ 15.

Theo truyền thuyết, sư Từ Đạo Hạnh đầu thai làm con trai Sùng Hiền hầu, em vua Lý Nhân Tông. Vì vua Lý Nhân Tông không có con, nên con trai của ông Sùng Hiền hầu được nối ngôi, tức vua Lý Thần Tông (trị vì từ 1128 đến 1138).

Do sự tích ấy mà con của Lý Thần Tông là Lý Anh Tông đã cho xây cất chùa Chiêu Thiền để thờ vua cha và tiền thân của Người là thiền sư Từ Đạo Hạnh. Chùa được trùng tu nhiều lần, nhất là vào các năm 1656, 1901 và năm 1989.

Chùa Láng (Chiêu Thiền tự) được xây dựng thời Vua Lý Anh Tông (1138 - 1175) là một quần thể kiến trúc rộng lớn, được xây dựng theo kiểu "nội công ngoại quốc", tính đủ 100 gian. Cổng chùa bao gồm bốn cột vuông với ba mái cong không chùm lên cột mà gắn vào sườn cột. Mái giữa cao hơn hai mái bên, giống như kiến trúc cổng ở cung vua phủ chúa ngày xưa.

Qua cổng là sân gạch Bát Tràng, giữa sân là chiếc sập đá, nơi đặt kiệu trong các ngày lễ hội. Cuối sân có cửa tam quan, có đường lát gạch dẫn đến cổng thứ ba. Qua cổng này có ngôi nhà bát giác là nơi đặt tượng Từ Đạo Hạnh. Tương truyền, tượng này có từ thời Lý, đến thời Lê (khoảng 1644 - 1646) được tu bổ cơ bản và đến tháng 01 năm 2005, bức tượng lần nữa được tu bổ toàn diện. Qua nhà bát giác mới đến các công trình chính trong chùa: Bái đường, nhà thiêu hương, thượng điện, các dãy hành lang, nhà tổ và tăng phòng...

Động thập điện Diêm Vương ở hai dãy hành lang, miêu tả những hình phạt ở các tầng địa ngục.

Hội chùa Láng cử hành vào ngày mồng bảy tháng ba âm lịch, là ngày sinh của Thiền sư Từ Đạo Hạnh. Trong ngày hội, kiệu của Thiền sư Từ Đạo Hạnh được rước đến chùa Hoa Lăng ở xã Dịch Vọng, nơi thờ bố mẹ ông.

Chùa Thầy ở Sơn Tây cũng thuộc hệ thống chùa thờ Từ Đạo Hạnh nên dân gian có câu rằng:

Nhớ ngày mồng bảy tháng ba,

Trở về hội Láng, trở ra hội Thầy.


Chủ Nhật, 27 tháng 12, 2020

CHIỀU Ở PHÍA NGƯỢC GIÓ CỦA NHÀ THƠ THẠCH ĐÀ- BÁO PHÚ YÊN

 Chiều ở phía ngược gió của nhà thơ Thạch Đà

Chủ Nhật, 20/12/2020 10:28 SA


Bìa tập thơ Chiều ở phía ngược gió. Ảnh: YÊN LAN

Nhà thơ Thạch Đà, một người con Phú Yên đang dạy Văn, sinh sống ở nơi cuối trời của Tổ quốc - vừa ra mắt tập thơ Chiều ở phía ngược gió (NXB Hội Nhà văn).

 

Tập thơ mới toanh này giới thiệu với bạn đọc gần 100 bài thơ là những hoài niệm, những độc thoại, những niềm riêng của tác giả nơi Đất Mũi, những ký ức về Tuy Hòa thân thương “Tôi vẫn giữ Tuy Hòa trong trí nhớ/ Một Tuy Hòa tuổi thơ/ Đồng ruộng phì nhiêu/ Nhà nhỏ phố nhỏ/ Bây giờ phố đã đổi thay/ Tôi mộng du bơi giữa dòng người/ Gốc sung nhỏ bao buồn vui nhân thế/ Ly cà phê thơm khói mộng ban đầu/ Tuy Hòa vẫn còn trong trí nhớ…”.

 

Sau Sông Đốc ngày nắng muộn (NXB Thanh Niên, 2016) và Phương Nam lộng gió (NXB Hội Nhà văn, 2018), Chiều ở phía ngược gió là tập thơ thứ ba của nhà thơ Thạch Đà (Hồ Thanh Ngân) - một người con đã xa dòng sông Ba, xa ngọn Thạch Bi Sơn vào phương Nam lập nghiệp. Nhà thơ sinh năm 1978 này đang dạy học ở thị trấn Sông Đốc, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau.

 

YÊN LAN

BÌNH LUẬN

Thứ Bảy, 26 tháng 12, 2020

NHỮNG CÂU THƠ CHƯA KỊP MẶC QUẦN - ĐÀO ĐỨC TUẤN

 Những câu thơ chưa kịp mặc quần

ĐÀO ĐỨC TUẤN
Hồi mình đi làm ở khu tập thể 17, Hồ Thanh Ngân thỉnh thoảng đến chơi, toàn chơi với người nhỉnh tuổi hơn. Đây là giai đoạn Ngân học cấp 2 phường tư, rồi cấp 3 Nguyễn Huệ. Ngân thường gởi thơ cộng tác chương trình phát thanh thiếu nhi do mình phụ trách, sau nó lây qua chương trình văn học nghệ thuật của anh Nguyễn Tường Văn. Hỏi “em có chơi với bạn học cùng lứa không?”, Ngân tỉnh tỉnh “tụi nó nói chuyện chán lắm”. Nghe nói ông già Ngân đạp xích lô, có hồi chở miễn phí Xuân Diệu đi vòng vòng ngắm thị xã Tuy Hòa.
Bẵng một dạo, Ngân đi đại học sư phạm Quy Nhơn. Ra trường chạy xin việc phờ tai cu mà không được. Có lúc băng chơi tụi mình ngồi Cà phê Nhớ, thấy nó phụ quán bưng bê kê rót. Nghiệt ngã. Rồi nghe nó rời Phú Yên vô tít Cà Mau tìm việc làm. Rồi đi dạy. Rồi cưới vợ. Rồi có con. Nghe nói vợ nó là con ông hiệu trưởng.
Bữa nó về tạt khu 17 thăm, mình kéo ra quán chị Bảy. Làm mấy ly, bất ngờ nó xổ bài coi bói. Thiệt lòng, nó bói tài như thơ. Nghe nói học nghề từ thi sĩ bói tên Truyền ở Hòa An. “Hồi mới về Cà Mau, không có mấy chiêu coi bói chắc em đói chết”, nó trầm trầm trước tuổi. Sau mấy năm ở Cà Mau, nó lấy bút danh Thạch Đà (đá sông Đà Rằng?).
Cứ dần dà, thấy nó làm thơ nhiều hơn. Lúc trước, thơ Ngân không dài, đằm thắm, dạt dào lãng mạn: “Em đến trường theo lối mùa đông / Ngủ quên trên phiến lá / Sáng nay không còn tia nắng / Vỡ òa những hạt sương rơi”.
Một lúc chợt giựt mình khi đọc thấy thơ Ngân “Những câu thơ chưa kịp mặc quần”. Mình nhớ bài thơ này đăng trên một tờ báo ở Hà Nội. Thế nhưng sau không thấy Ngân đưa vào tập thơ nào.
Lại giựt mình sau 3 tập thơ, nó quất nguyên tập trường ca “Nhớ Phú Yên” gồm 13 chương dài 60 trang: “Lại nhớ về xứ Nẫu yêu thương / Câu hát than thân trách phận / Sông Ba bốn mùa chắt chiu con nước / Góp nuôi hạt lúa quê nhà / Điệu bài chòi giữ hồn xứ sở / Nhạn Tháp đêm trăng réo rắt gọi thơ về / Người đi xa nặng lòng cơm áo / Đá Bia chiều đỉnh nhớ trong mơ”.
Mình đọc trong thơ Ngân chất thân phận đậm đặc hơn nhiều tay thơ cùng lứa, càng ngày càng đậm đặc: “Qua phà Rạch Ráng chiều nay / Hình như lòng đã bớt cay đắng rồi”; “Ta đọc sách người xưa nơi thanh vắng / để thấy người nay sống khó hơn người xưa / những đám mây muôn đời vẫn thế / chỉ lòng người là rắc rối hơn”; “Chén cơm bưng sóng mạn thuyền / Đời cho vay chút tình riêng xa nhà”.
Lê Thiếu Nhơn viết: “Hồ Thanh Ngân ôm mộng thi sĩ từ rất sớm. Hồ Thanh Ngân mê thơ đến mức ngày nào cũng chui đầu vào Thư viện Phú Yên nghiền ngẫm hết tập thơ này đến tập thơ khác. Những tác phẩm đầu tay của Hồ Thanh Ngân đã chớp lóe thi tài”.
Nguyễn Thị Việt Hà vẽ: “Thơ Ngân thơm mùi hoài niệm rưng rưng. Tôi biết Ngân là người không biết cách gì để kiếm thêm tiền ngoài thu nhập từ lương của một anh giáo vùng sâu. Nếu chịu lụy, hay khác đi cách sống mà người ta cho là gàn dỡ của mình có khi mọi chuyện sẽ khác”.
Phan Hoàng nói về trường ca “Nhớ Phú Yên” của Hồ Thanh Ngân: “Tư duy lịch sử và hình tượng lồng trong xúc cảm cuồn cuộn đã giúp cho cây bút trẻ thể hiện được sự đĩnh đạc, mạch lạc và cuốn hút xuyên suốt trường ca. Nó cũng mở ra hy vọng về một tác giả thơ tài năng đang “ẩn mình” ở cuối trời Tổ quốc”.
Mấy năm nay, về Tuy Hòa lần nào nó cũng hú mình bù khú. Bữa rồi gọi điện năm hồi mười hịch nó không bắt máy (chắc say hoặc chán mớ đời?). Tôi nhắn tin rồi soạn mấy câu hỏi phỏng vấn gởi qua imeo. Cứ tưởng nó trả lời cũng dài dài đỡ đỡ (như mấy người khác) bớt mắc công mình nặn đầu viết. Ai dè nó gõ mấy dòng cụn lủn, mình cố mông má nhưng sợ mất trung thực:
* Chào nhà thơ Hồ Thanh Ngân, anh rời Phú Yên tới định cư Cà Mau bao lâu rồi? Cuộc sống làm ăn lúc này ra sao?
- Tôi sống ở Cà Mau 17 năm, cuộc sống viên chức nhà giáo bình thường.
* Có thể “cân đo” tình cảm của anh về hai vùng đất này?
- Cà Mau là nơi để sống, Phú Yên là nơi để nhớ về kỷ niệm. Tôi sống ở Sông Đốc, nói như nhà báo Trần Hoàng Nhân, quê hương nào có đâu xa / nơi nào sống được đấy là quê hương.
* Từ khi về Cà Mau lập nghiệp, anh đã cho ra mắt 3 tập thơ (Sông Đốc ngày nắng muộn, Phương Nam lộng gió, Chiều ở phía ngược gió) và một tập trường ca (Nhớ Phú Yên). Hình như xa quê nhà đã chất chứa thi ca cho anh nhiều hơn?
- Quê hương là nơi có cha mẹ, người thân, dòng họ. Xa quê thì kỷ niệm về quê hương lung linh hơn. Cảm xúc thi ca là sản phẩm k‎ý ức, đi xa để nhìn gần lại quê hương .
* Anh viết: Khi tôi không xin được việc làm / Cha tôi bảo: hãy đi đến chân trời lạ / Cây chỉ trở thành cổ thụ / Khi rời khỏi quê hương. Tôi muốn anh kể về sự thôi thúc hình thành trường ca “Nhớ Phú Yên”?
- Tôi khởi sự viết trường ca Nhớ Phú Yên năm 2012. Lúc đầu 7 chương, sau đó tháo tung ra viết lại, vì nó kể lể nhiều quá. Có nhiều người viết về Phú Yên như trường ca Ở làng Phước Hậu của Trần Vũ Mai, Nhớ máu của Trần Mai Ninh,… nhưng chỉ nói một phần, một góc độ về Phú Yên. Tôi là con dân Phú Yên, tôi muốn nhìn tổng quát về Phú Yên hơn bằng một chút tình đối với quê hương. Tôi đọc các trường ca Việt Nam và dừng lại ở l‎ý thuyết về trường ca của Paul Nguyễn Hoàng Đức.
* Nếu được chọn lại, anh có làm thi sĩ?
- Tôi từ nhỏ có ước mơ làm nhà thơ. Lớp 10, học văn cô Nguyễn Thị Ngân làm cho tôi yêu thích văn học. Dù tôi biết thơ tôi không hay như bè bạn nhưng tôi vẫn viết để dàn trải lòng mình. Nếu có kiếp sau hoặc lựa chọn lại, tôi vẫn có mong ước làm thi sĩ. Vì làm thơ giúp tôi sống lương thiện yêu đời yêu người.
(Ảnh: Hồ Thanh Ngân (phải) cùng vợ con)
Hình ảnh có thể có: 3 người, bao gồm Đà Thạch, mọi người đang đứng và ngoài trời

Thứ Bảy, 19 tháng 12, 2020

MẸ VỢ - NGUYỄN KHÔI

  MẸ VỢ



    Mẹ vợ là một nhân tố không thể thiếu và không thể không đề phòng trong hôn nhân . Nhiều cặp vợ chồng đã tan vỡ, hoặc hạnh phúc vì mẹ vợ . Ở mỗi quốc gia, mẹ vợ lại có một biệt danh và nỗi sợ hãi khác nhau .





     Xin thống kê để các ông chồng tham khảo :





     Mỹ : Dân Mỹ gọi mẹ vợ là “luật sư”. Nghĩa là trong bất kỳ hoàn cảnh nào, mẹ vợ cũng tìm ra lý lẽ bênh vực cho con gái mình . Luật sư này cũng tính tiền công nhưng luôn luôn do con rể trả .


     Tại sao các tổng thống Mỹ phần lớn đều tốt nghiệp trường luật ? Tại vì họ muốn đấu tranh với mẹ vợ trước khi đấu tranh cho xã hội .





     Pháp : Gọi mẹ vợ là quan tòa . Tất cả những phán quyết của quan tòa luôn luôn cần chấp hành, nhưng quan tòa có thể hối lộ được, đấy là chân lý đàn ông Pháp thuộc lòng .





     Anh : Dân Anh gọi mẹ vợ là “nữ bá tước” - danh hiệu có từ lâu đời, đáng kính nhưng không nhất thiết phải hỏi ý kiến trong nhiều vấn đề . “Nữ bá tước” có giá trị biểu tượng nhiều hơn giá trị thực, nhưng chớ quá coi thường . Các mẹ vợ Anh bằng lòng với danh hiệu này, bởi đối tượng của họ là bố vợ chứ không phải con rể .





     Đức : Dân Đức gọi mẹ vợ là “sếp”. Sếp là nhân vật cấp trên bổ xuống đầu ta chứ chả cần hỏi ý kiến ta . Sếp có thể bất công, sếp có thể vui vẻ và sếp có thể công bằng nhưng không sếp nào muốn mất chức và không sếp nào muốn nhân viên lên làm sếp .





     Trung Quốc : Dân Trung quốc gọi mẹ vợ là “ma ma tổng quản” ý nói đây là một bà già thiên về quản lý chứ không thiên về văn hóa văn nghệ . Bà ấy rất khó khăn trong ngân sách, trong nội quy, trong giờ giấc nhưng lại thiếu hiểu biết về tâm hồn . Đáng sợ là các “ma ma tổng quản” đã ly dị chồng vì khi đó họ sẽ dồn sức cho công việc và khó tính hơn.





     Ý : Dân Ý gọi mẹ vợ là “cảnh sát”. Chả ai thấy cảnh sát khi thường, nhưng có sự cố xảy ra họ tới rất nhanh và thường rút súng đầu tiên . Nhưng cảnh sát không bao giờ bắt được hết tội phạm. và việc cảnh sát thỉnh thoảng liên kết với tội phạm cũng xảy ra .


     Tuy nhiên, cảnh sát tới bao giờ cũng hú còi, còn mẹ vợ có thể tới trong im lặng.





     Tây Ban Nha : Người dân Tây Ban Nha gọi mẹ vợ là “thám tử”. Thám tử hoạt động âm thầm, không ra mặt điều tra công khai . Thám tử không phải lúc nào cũng dùng những nghiệp vụ hợp pháp. Nhưng thám tử cũng có thể dùng tới bạo lực .





     Đan Mạch : Dân Đan Mạch gọi mẹ vợ là “lính gác”. Lính gác luôn có hai chức năng : khám xét người bên ngoài vào và khám xét người từ trong ra . Lính gác cũng hay ngủ gật và hay mang súng mà không có đạn . Tâm trạng của lính gác là cô đơn và ghét kẻ khác không cô đơn .





     Thụy Điển : Người Thụy Điển gọi mẹ vợ là “giáo sư”. Một số thứ giáo sư có kiến thức cực kỳ sâu sắc, nhưng rất nhiều thứ giáo sư chả biết gì . Các giáo sư luôn tỏ ra đường bệ và luôn luôn cần có học trò . Giáo sư sống thanh đạm cho nên không hiểu được khi kẻ khác sống phong phú . Muốn được giáo sư cho điểm cao, đôi lúc chỉ cần học thuộc lòng.





     Na Uy : Dân Na Uy gọi mẹ vợ là “cá voi”. Cá voi to lớn, hiền lành và hay cứu người. Nhưng nếu cần cá voi sẽ nuốt cá mập.





     Việt Nam : Người Việt Nam gọi mẹ vợ đơn giản là mẹ vợ . Mỗi ông chồng có cách cư xử với mẹ vợ tùy vào hiểu biết và lòng dũng cảm .





     Mời bà con Xóm Láng góp thêm ý kiến về mẹ vợ Việt Nam nha .





              Chúc mọi người một tuần mới vui vẻ, may mắn .

















CẢM NGHĨ 2020- NGUYỄN KHÔI

 Chùm tứ tuyệt tháng 12/2020

                  CẢM NGHĨ 2020
                          -------
*1-Dịch cúm Tàu bắt Hoa kỳ quỳ gối
"Thế giới Tự do" : đói, ốm, chết tự do ...
Donald Trump lỗi nhiệm kỳ quậy phá
Trung Cộng, Nga...làm chủ thế Bàn cờ.
                             *
*2- Ôi, một năm thiên tai bùng hung dữ
Lũ lụt miền Trung, hạn mặn Cửu Long
Dân bỏ xứ nơi xưa là Đất Hứa
Cảnh baó ta tính lại cách làm ăn ?
                             *
*3- Ơi Việt Nam một năm trong Ốc đảo
"Chống cúm Tàu"...lại một trận kiêu hùng
Xe vẫn chạy, ruộng đồng dân tần tảo
Vì ấm no  khởi sắc vụ Đông xuân.
                             *
*4- Năm sắp hết : Dân nức lòng, hởi dạ
Mừng "Tất Thành Cang cũng đã vào Lò"
Còn " Sâu Chúa" lũ tham tàn nằm đó
Dân Thủ Thiêm còn bao nỗi âu lo.
                             *
*5- Đón năm mới : Chào mừng Đại hội Đảng
Đảng vì Dân cho Tổ Quốc vượt tầm
Đào Nhật Tân cánh hồng đang hé nụ
Cùng Mai vàng Đồng Tháp rực hồn Xuân.
              Hà Nội 20/12/2020
                NGUYỄN KHÔI

Thứ Sáu, 18 tháng 12, 2020

CHÚT KỶ NIỆM VỚI NHÀ THƠ PHÙNG QUÁN - PHAN PHÚ (NPPHAN)

 CHÚT KỶ NIỆM VỚI NHÀ THƠ PHÙNG QUÁN

Tôi biết đến nhóm Nhân văn Giai phẩm và tên tuổi của các nhà văn, nhà thơ Trần Dần, Hoàng Cầm, Phùng Quán, Lê Đạt, Hữu Loan… qua tập biên khảo “Trăm hoa đua nở trên đất Bắc” của ông Hoàng Văn Chí xuất bản ở miền Nam từ trước năm 1975. Với lứa tuổi những năm đầu trung học, mặc dù đọc không hiểu được nhiều nhưng tôi cảm phục biết bao nhiêu tài năng của những nhà văn, nhà thơ “chống chế độ”. Tôi thuộc lòng nhiều đoạn trong những bài thơ như “Nhất định thắng” của nhà thơ Trần Dần với điệp khúc “Tôi bước đi không thấy phố, thấy nhà, chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ…”, bài “Nhớ lời mẹ dặn” của nhà thơ Phùng Quán “Yêu ai cứ bảo rằng yêu, ghét ai cứ bảo rằng ghét, dù ai ngon ngọt nuông chiều, cũng không đổi yêu thành ghét..”, truyện ngắn “Lộn sòng” của Hữu Loan, bức vẽ “Nịnh trên nạt dưới” của họa sĩ Trần Duy… được in lại từ những Giai phẩm mùa xuân, Giai phẩm mùa thu… Trong tâm trí tôi, những tên tuổi Trần Dần, Phùng Quán, Hoàng Cầm… là những tên tuổi lớn, chỉ có thể “kính nhi viễn chi”.
Thế mà tôi lại hân hạnh có vài kỷ niệm nhỏ với một trong những tên tuổi lớn ấy.
Một dịp may tình cờ, tôi được gặp anh Phùng Quán (anh đã cho phép tôi được gọi là anh cho… trẻ, mặc dù tuổi của anh cách xa tuổi tôi cả một thế hệ). Đó là vào mùa hè năm 1987, anh Phùng Quán trên chuyến tàu Thống Nhất từ Bắc vào Nam cùng với anh Vũ Ngọc Giao đã ghé lại thành phố biển miền Trung. Tôi đã được nghe anh nói chuyện về thơ, đọc thơ tại rạp hát Tân Quang (bây giờ không còn nữa). Hình ảnh của nhà thơ tôi yêu mến là một ông già tóc râu bạc, mặc bộ quần áo nâu, đi dép râu, đội chiếc mũ lá. Rồi tôi may mắn được làm quen với anh, mời được anh về đọc thơ cho học sinh và giáo viên của trường tôi nghe. Buổi tối đọc thơ hôm ấy có cả các nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Quang Hà… ở Huế vào và một số bạn văn khác của anh. Cả hội trường đã nghe như nuốt từng lời cái giọng sang sảng, truyền cảm của anh qua những bài thơ như “Tình tuyệt vọng”, “Tôi thích viết trên giấy có kẻ giòng”, “Mưa Huế”…, hòa vào tiếng đàn guitar dịu dàng, trầm bổng của anh Vũ Ngọc Giao. Anh bảo nếu có điều kiện anh sẽ đọc cả truyện (anh đang hoàn thành tiểu thuyết “Tuổi thơ dữ dội”) như Charles Dickens đã từng làm.
Rồi tôi lại có dịp rong ruổi cùng anh trong thời gian anh lưu lại thành phố biển, được nghe anh kể về chị Bội Trâm, về những gian truân của cuộc đời anh: lăn lóc khắp nơi từ công trình thủy lợi Bắc Hưng Hải, Gang thép Thái Nguyên, về cuộc đời “rượu lậu, cá chịu, văn chui”. Anh đã kết luận về đời anh: “Thượng đế ơi, tôi đã làm gì, mà người ban cho tôi lý rượu đời đắng thế!”
Anh tặng cho tôi hai bức ảnh trắng đen chụp ở thành phố biển, mấy bài thơ viết tay xé ra trong sổ tay chép thơ của anh mà đối với tôi, bây giờ đã trở thành những kỷ vật quý giá.
Sau đợt ấy, anh cùng với các bạn văn nghệ vào Sài Gòn.
Mấy lần ra Hà Nội, tôi cứ đinh ninh là sẽ đến thăm lại anh, mà rồi không lúc nào thăm được, cho đến lúc anh ra đi. Và sau đó, “người phụ nữ bất chấp tai ương” của đời anh cũng ra đi. Tiếc nuối khôn nguôi.
Phùng Quán, một nhà thơ sống hết mình cho thơ, một ngọn nến cháy đến tận cùng. Phùng Quán, một nhà thơ sống quá thẳng ngay, một cái tâm trong sáng hiếm có trong cuộc đời này, chịu hết mọi nỗi khổ đau trần thế.
Tôi rất thích bài “Mưa Huế” của nhà thơ Phùng Quán. Bài thơ từ trong sổ tay, sau in lại trong tập “Trăng Hoàng cung”. Theo nhà thơ thì: “Nắng mưa của Huế thật đặc biệt, nắng đến nỗi bùn hóa đá, mưa đến nỗi đá hóa bùn ".
Mưa Huế
Trái tim em không được bình yên!
Bức điện khẩn tôi nhận từ đáy mắt em
Nói dại dột
Một sớm mai nào đó
Em bỗng bay mất
Tôi sẽ tan thành mưa Huế những ngày đông
Tôi sẽ xối xả xuống tất cả những nơi nào em đã đặt chân
Đá Ăng-ko Thom
Và bê tông Hồng trường
Sẽ phải xói lở
Vì những cơn mưa dai dẳng dữ dội
Đêm trắng Pe-téc-bua sẽ sẩm tối
Đền Bai-on ngập lụt phải đi thuyền
Léc-măng-tốp
Pust-skin
Mai-a
Nàng Áp-sa-ra
Đồng và đá
Lần đầu tên được nếm mùi mưa Huế
Họ liếm những cặp môi ướt đẫm
Và kêu lên:
- Ôi cái mưa khùng điên
Mưa không còn biết gì tới chừng mực!
Mưa Huế trả lời trong tiếng rơi sầm sập:
- Làm gì có chừng mực thơ
- Làm gì có chừng mực mưa
- Làm gì có chừng mực yêu
- Làm gì có chừng mực thiên tài!
- Làm gì có chừng mực khổ đau!
NP phan
Hình ảnh có thể có: 1 người

BÀI MỚI ĐẮNG

Truyện ngắn: BÊN CÁNH GÀ CHÁNH ĐIỆN _ NGUYỄN HẢI ĐĂNG

Bên cánh gà chánh điện phần 1 BÊN CÁNH GÀ CHÁNH ĐIỆN Xe dừng lại với tiếng xột xoạt trên mặt đường, như bao chuyến xe đã ghé qua từ thuở ...