Phiếm đàm Bao giờ mới xuất hiện tác phẩm văn học “xứng tầm” ?
Đào Dục Tú
Nhiều thập kỳ vừa qua, có một nỗi niềm băn khoăn trăn trở của cả người viết lẫn người đọc là văn học Việt Nam bao giờ xuất hiện tác phẩm “xứng tầm” thời đại, xứng đáng với dân tộc ?
Đặt câu hỏi bao giờ xuất hiện , cũng có nghĩa “ngầm” đặt vấn đề tiên quyết là làm thế nào để có tác phẩm như thế ? Đã có, thì xuất hiện chỉ còn là vấn đề thời điểm ,thời gian. Lại chợt liên tưởng đến giai đoạn văn học chống Mỹ cứu nước . Cái mà mọi lý thuyết văn học XHCN thường xem trọng là “hiện thực cuộc sống”. Mà hiện thực cuộc sống thời đó thì. . .” vô cùng hoành tráng” cả về chiều kích lịch sử thời đại lẫn chiều sâu nhân bản ,nhân văn : “Nếu lịch sử chọn ta làm điểm tựa” . . .Ta vì ta cũng vì cả . . . loài người. . . Ấy thế nhưng ; có lẽ không chỉ “tự kiểm kê ” gia sản văn học của từng cá nhân mà trông rộng ra, của cả nền văn học; có mấy người cầm bút dám tự mãn, hài lòng. Xin viện dẫn trường hợp. hai nhà văn quân đội tiêu biểu là Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Khải Mỗi người một cách nói ,mỗi người một cách diễn dịch ; song đều dẫn tới lời bình ngụ ý : chẳng có tác phẩm nào “sống được” với thời đoạn vài thập kỷ chứ đừng nói gì đến giấc mơ ” sống mãi với thời gian”. “
Hãy đọc lời ai điếu cho một nền văn học minh họa !” hay ” một thời lãng mạn” thiếu chân đế sự thật, thì cũng chỉ là hai cách nói, hai cách diễn dịch của một nội hàm ,của một nội dung “tác phẩm còn phản ánh phiến diện sự thật”.Mà một nửa bánh mì là bánh mì còn một nửa sự thật thì không là . . . sự thật. Tác phẩm “không là sự thật” cũng thật khó coi là tầm cỡ ,đương nhiên. Kể cũng buồn. Đối với lớp người cầm bút hậu sinh sau chiến tranh, nay đã ở độ tuổi trên dưới “tứ thập bất hoặc” “chín” cả về đời lẫn về nghề thì lời cảnh báo ,lời di huấn của các bậc đàn anh như thế có thể nói là “muộn còn hơn không”. Chứ với người đã kinh qua hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc, nói chung”lực bất tòng tâm”, thì chỉ còn một việc duy nhất là đem theo nỗi buồn tiếc nuối văn chương sang. . . thế giới bên kia “một ngày xấu trời” nào đó mà thôi. Còn ai không tiếc nuối, không “phản tỉnh ,phản biện” trước hết với chính mình, thì còn biết nói gì với họ . Với người đời đa lộc đa thọ thành đạt tự mãn , nghề văn cũng mát mái xuôi chèo, xin được kính nhi viễn chi. . .
Những lời “tự vấn nghề nghiệp” văn chương của hai ông họ Nguyễn “trẻ” để tạm phân biệt một cách vui vẻ với cụ “Nguyễn già” khả kính mà phong cách văn chương lẫn phong cách sống đã gần như. . . giai thoại, có quá nhiều giai thoại . . . thật đáng ” để đời” suy ngẫm. Chao ôi, tác phẩm lớn “lộng gió bốn phương” ánh sáng cuối đường đời ,cuối chân trời đối với người cầm bút xa xôi như ảo ảnh . ” Sống và chiến đấu” đến như hai bác Nguyễn trẻ, với vốn sống và vốn thời gian kinh lịch ở đời đáng nể đáng kể như thế ,với tâm huyết đổ vào nghề cầm bút cũng đáng nể đáng kể. như thế, kinh nghiệm viết văn như thế và chồng sách vở trước tác ra khá cao như thế . . .như thế . . .mà còn không hài lòng ,mà còn vẫn mơ, dù nói ra hay không ,,tác phẩm để đời ,có ích lâu dài cho người đường thời và cho mai hậu. Huống chi là người mới “sạch nước cản” ,nghề văn ,nghiệp văn còn mỏng cánh chuồn chuồn ! Không ngoại trừ có những tài năng đột xuất, có những . . . “ngôi sao ban ngày”. Ví như đầu thời kỳ đổi mới nửa cuối thập kỷ 80 thế kỷ trước ,sự xuất hiện của Nguyễn Huy Thiệp và hàng loạt truyện ngắn xuất sắc của ông ta đến mức nghe nói nhà văn Nguyễn Khải lúc bấy giờ chỉ muốn đánh đổi chồng sách cao của mình lấy “Tướng về hưu” của Thiệp . . . .Hỏi văn giới Việt mấy chục năm qua ,có được mấy người như Thiệp? Còn thì . . .
Hình như “nghiệp chữ” chỉ trả công, chỉ vinh danh thích đáng cho những ai, nói như cụ Trần Dần ” Thủ lĩnh trong bóng tối” (chữ của Phạm Thị Hoài) thồ chữ ở xứ này lên. . . .Hay nói như cụ Lê Đạt, phu chữ, nhọc nhằn ,đổ mồ hôi sôi nước mắt với chữ. Ấy là chỉ nói ,”nghiêng nói” về nghề, về cái đạo văn chương thời nào cũng vậy. Để phần nào phân biệt với đủ thứ người viết lập thân bằng đủ thứ nghề khác nhau ,kinh lịch khác nhau nhưng giống nhau ở một điểm là đơn giản hóa công việc cầm bút, dễ dãi với chữ đến mức trong thực tế xem chữ như con lừa thồ . . . khẩu hiệu luận đề tuyên truyền thời sự , thồ những bài học đạo đức xã hội ” hợp thời trang” có khi rất xa đời sống xã hội . Họ quên , ý thức hoặc vô thức , rằng chữ có đời sống riêng của nó ,cũng như hình tượng nghệ thuật muốn sống được trên trang giấy trắng mực đen phải có đời sống riêng,”nhân cách” riêng, cá tính riêng điển hình của nó. Lại nhớ một thời lý thuyết điển hình của chủ nghĩa hiện thực ” tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình”. . . cùng rất nhiều thứ “tính” của văn học ghi trong giáo trình trung cấp của tác giả Nga Xô viết Ti-mô-phi-ép . . .được các thầy truyền giảng cho sinh viên Văn khoa nước ta thập kỷ sáu mươi ,bẩy mươi thế kỷ trước .
Thời cụ Nam Cao, cụ đâu được thừa hưởng. . . lý thuyết đó ! Lại càng xa lạ với “thời đại thông tin toàn cầu” như thời a-còng mà tài thế , “tài đến thế là cùng” ,cặp bài trùng Chí Phèo Thị Nở chẳng những không bị thời đại hậu hiện đại ” át vía” mà còn ,hình như sống động hơn xưa !. Hay tại bởi “hiện thực đời sống” thời nay số lượng Chí Phèo các kiểu càng ngày càng đông đúc, đi tới đâu cũng không khéo vào nhầm phải làng . . Vũ Đại ! Tiếc thay hình tượng con người mới trong văn chương mấy chục năm nay chả có nhân vật nào sống động được như . . . anh Chí, chị Nở ! Hình như lão Khúng của bác Châu “khách ở quê ra” tỉnh cũng mờ dần ,các lão “Khùng” có cơ lấn lướt xô đẩy lão Khúng vào một xó quên lãng rồi cũng nên !. . . Chưa kể đến những người lính trong “Dấu chân người lính” hay “Mảnh trăng cuối rừng” hình như chỉ còn phảng phất như . . . mơ trong tâm cảm lớp người thuộc diện ” xưa nay hiếm” trở nên trung thọ ,đại thọ , mỗi khi họ ” chống mắt ,dỏng tai” ngồi xem truyền hình nhà nước chiếu lại cảnh Trường Sơn năm xưa ” Ai chưa tới đó thì chưa hiểu mình” ( Tố Hữu).
Trước khi có lời đáp bao giờ xuất hiện tác phẩm văn học xứng tầm, chắc chắn phải có lời giải trình thuyết phục được độc giả bởi chính người cầm bút; là làm gì, làm thế nào để có được tác phẩm “đẹp như mơ” như thế. Hiện thực đời nào cũng ” hoành tráng theo kiểu riêng của nó” cả, vấn đề chỉ còn ở chỗ tinh thần người cầm bút có thực sự trọng chữ ở mức cần thiết hay. . . cao hơn ,”trên cả mức cần thiết” cho văn chương hay không mà thôi ./ .
Nhiều thập kỳ vừa qua, có một nỗi niềm băn khoăn trăn trở của cả người viết lẫn người đọc là văn học Việt Nam bao giờ xuất hiện tác phẩm “xứng tầm” thời đại, xứng đáng với dân tộc ?
Đặt câu hỏi bao giờ xuất hiện , cũng có nghĩa “ngầm” đặt vấn đề tiên quyết là làm thế nào để có tác phẩm như thế ? Đã có, thì xuất hiện chỉ còn là vấn đề thời điểm ,thời gian. Lại chợt liên tưởng đến giai đoạn văn học chống Mỹ cứu nước . Cái mà mọi lý thuyết văn học XHCN thường xem trọng là “hiện thực cuộc sống”. Mà hiện thực cuộc sống thời đó thì. . .” vô cùng hoành tráng” cả về chiều kích lịch sử thời đại lẫn chiều sâu nhân bản ,nhân văn : “Nếu lịch sử chọn ta làm điểm tựa” . . .Ta vì ta cũng vì cả . . . loài người. . . Ấy thế nhưng ; có lẽ không chỉ “tự kiểm kê ” gia sản văn học của từng cá nhân mà trông rộng ra, của cả nền văn học; có mấy người cầm bút dám tự mãn, hài lòng. Xin viện dẫn trường hợp. hai nhà văn quân đội tiêu biểu là Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Khải Mỗi người một cách nói ,mỗi người một cách diễn dịch ; song đều dẫn tới lời bình ngụ ý : chẳng có tác phẩm nào “sống được” với thời đoạn vài thập kỷ chứ đừng nói gì đến giấc mơ ” sống mãi với thời gian”. “
Hãy đọc lời ai điếu cho một nền văn học minh họa !” hay ” một thời lãng mạn” thiếu chân đế sự thật, thì cũng chỉ là hai cách nói, hai cách diễn dịch của một nội hàm ,của một nội dung “tác phẩm còn phản ánh phiến diện sự thật”.Mà một nửa bánh mì là bánh mì còn một nửa sự thật thì không là . . . sự thật. Tác phẩm “không là sự thật” cũng thật khó coi là tầm cỡ ,đương nhiên. Kể cũng buồn. Đối với lớp người cầm bút hậu sinh sau chiến tranh, nay đã ở độ tuổi trên dưới “tứ thập bất hoặc” “chín” cả về đời lẫn về nghề thì lời cảnh báo ,lời di huấn của các bậc đàn anh như thế có thể nói là “muộn còn hơn không”. Chứ với người đã kinh qua hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc, nói chung”lực bất tòng tâm”, thì chỉ còn một việc duy nhất là đem theo nỗi buồn tiếc nuối văn chương sang. . . thế giới bên kia “một ngày xấu trời” nào đó mà thôi. Còn ai không tiếc nuối, không “phản tỉnh ,phản biện” trước hết với chính mình, thì còn biết nói gì với họ . Với người đời đa lộc đa thọ thành đạt tự mãn , nghề văn cũng mát mái xuôi chèo, xin được kính nhi viễn chi. . .
Những lời “tự vấn nghề nghiệp” văn chương của hai ông họ Nguyễn “trẻ” để tạm phân biệt một cách vui vẻ với cụ “Nguyễn già” khả kính mà phong cách văn chương lẫn phong cách sống đã gần như. . . giai thoại, có quá nhiều giai thoại . . . thật đáng ” để đời” suy ngẫm. Chao ôi, tác phẩm lớn “lộng gió bốn phương” ánh sáng cuối đường đời ,cuối chân trời đối với người cầm bút xa xôi như ảo ảnh . ” Sống và chiến đấu” đến như hai bác Nguyễn trẻ, với vốn sống và vốn thời gian kinh lịch ở đời đáng nể đáng kể như thế ,với tâm huyết đổ vào nghề cầm bút cũng đáng nể đáng kể. như thế, kinh nghiệm viết văn như thế và chồng sách vở trước tác ra khá cao như thế . . .như thế . . .mà còn không hài lòng ,mà còn vẫn mơ, dù nói ra hay không ,,tác phẩm để đời ,có ích lâu dài cho người đường thời và cho mai hậu. Huống chi là người mới “sạch nước cản” ,nghề văn ,nghiệp văn còn mỏng cánh chuồn chuồn ! Không ngoại trừ có những tài năng đột xuất, có những . . . “ngôi sao ban ngày”. Ví như đầu thời kỳ đổi mới nửa cuối thập kỷ 80 thế kỷ trước ,sự xuất hiện của Nguyễn Huy Thiệp và hàng loạt truyện ngắn xuất sắc của ông ta đến mức nghe nói nhà văn Nguyễn Khải lúc bấy giờ chỉ muốn đánh đổi chồng sách cao của mình lấy “Tướng về hưu” của Thiệp . . . .Hỏi văn giới Việt mấy chục năm qua ,có được mấy người như Thiệp? Còn thì . . .
Hình như “nghiệp chữ” chỉ trả công, chỉ vinh danh thích đáng cho những ai, nói như cụ Trần Dần ” Thủ lĩnh trong bóng tối” (chữ của Phạm Thị Hoài) thồ chữ ở xứ này lên. . . .Hay nói như cụ Lê Đạt, phu chữ, nhọc nhằn ,đổ mồ hôi sôi nước mắt với chữ. Ấy là chỉ nói ,”nghiêng nói” về nghề, về cái đạo văn chương thời nào cũng vậy. Để phần nào phân biệt với đủ thứ người viết lập thân bằng đủ thứ nghề khác nhau ,kinh lịch khác nhau nhưng giống nhau ở một điểm là đơn giản hóa công việc cầm bút, dễ dãi với chữ đến mức trong thực tế xem chữ như con lừa thồ . . . khẩu hiệu luận đề tuyên truyền thời sự , thồ những bài học đạo đức xã hội ” hợp thời trang” có khi rất xa đời sống xã hội . Họ quên , ý thức hoặc vô thức , rằng chữ có đời sống riêng của nó ,cũng như hình tượng nghệ thuật muốn sống được trên trang giấy trắng mực đen phải có đời sống riêng,”nhân cách” riêng, cá tính riêng điển hình của nó. Lại nhớ một thời lý thuyết điển hình của chủ nghĩa hiện thực ” tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình”. . . cùng rất nhiều thứ “tính” của văn học ghi trong giáo trình trung cấp của tác giả Nga Xô viết Ti-mô-phi-ép . . .được các thầy truyền giảng cho sinh viên Văn khoa nước ta thập kỷ sáu mươi ,bẩy mươi thế kỷ trước .
Thời cụ Nam Cao, cụ đâu được thừa hưởng. . . lý thuyết đó ! Lại càng xa lạ với “thời đại thông tin toàn cầu” như thời a-còng mà tài thế , “tài đến thế là cùng” ,cặp bài trùng Chí Phèo Thị Nở chẳng những không bị thời đại hậu hiện đại ” át vía” mà còn ,hình như sống động hơn xưa !. Hay tại bởi “hiện thực đời sống” thời nay số lượng Chí Phèo các kiểu càng ngày càng đông đúc, đi tới đâu cũng không khéo vào nhầm phải làng . . Vũ Đại ! Tiếc thay hình tượng con người mới trong văn chương mấy chục năm nay chả có nhân vật nào sống động được như . . . anh Chí, chị Nở ! Hình như lão Khúng của bác Châu “khách ở quê ra” tỉnh cũng mờ dần ,các lão “Khùng” có cơ lấn lướt xô đẩy lão Khúng vào một xó quên lãng rồi cũng nên !. . . Chưa kể đến những người lính trong “Dấu chân người lính” hay “Mảnh trăng cuối rừng” hình như chỉ còn phảng phất như . . . mơ trong tâm cảm lớp người thuộc diện ” xưa nay hiếm” trở nên trung thọ ,đại thọ , mỗi khi họ ” chống mắt ,dỏng tai” ngồi xem truyền hình nhà nước chiếu lại cảnh Trường Sơn năm xưa ” Ai chưa tới đó thì chưa hiểu mình” ( Tố Hữu).
Trước khi có lời đáp bao giờ xuất hiện tác phẩm văn học xứng tầm, chắc chắn phải có lời giải trình thuyết phục được độc giả bởi chính người cầm bút; là làm gì, làm thế nào để có được tác phẩm “đẹp như mơ” như thế. Hiện thực đời nào cũng ” hoành tráng theo kiểu riêng của nó” cả, vấn đề chỉ còn ở chỗ tinh thần người cầm bút có thực sự trọng chữ ở mức cần thiết hay. . . cao hơn ,”trên cả mức cần thiết” cho văn chương hay không mà thôi ./ .
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét