Thứ Hai, 19 tháng 8, 2013

TẠP VĂN NGUYỄN LINH KHIẾU

Nhà văn Nguyễn Linh Khiếu

Rằm tháng bảy
Khi những ngọn thu dài rộng lồng lộng đỉnh trời, những giọt thu sụt sùi ngậm ngùi trời đất, nắng sớm khoe vàng bất chợt và khi những cánh đồng lúa mùa thơm ngát, dòng sông ăm ắp phù sa đỏ cuồn cuộn về xuôi... Ấy là tháng bảy của xứ Bắc với biết bao cảm xúc ngổn ngang lòng người. Trời đất như thế, lòng người sao mà thờ ơ, yên ổn được. Người trẻ bồn chồn rạo rực, người già xao xác nỗi niềm xa xăm.

Tháng bảy mưa ngâu. Rằm tháng bảy lễ Vu lan, xá tội vong nhân. Dân gian thì chả phân biệt gì nhưng thực ra đó là hai việc khác nhau. Một đằng là báo hiếu, cầu siêu cho cha mẹ, ông bà tổ tiên và một đằng làm phúc, bố thí cho những vong hồn chúng sinh côi cút, vật vờ không nơi thờ cúng. Cả hai tích này đều có nguồn gốc từ các kinh sách cổ nhà Phật.
Lễ Vu Lan  
Tích xưa kể rằng, ông bà Phổ Tướng và Thanh Đề sinh người con trai tên là La Bộc. Do nhà nghèo, La Bộc phải xa nhà lặn lội đi buôn bán ở tỉnh Kiên Liên. Khi khá giả, La Bộc sai người mang tiền về biếu mẹ. Mẹ ông là người hoang tàng với bao việc làm quái dị, ngược đời. Bà không chỉ tiều sài hết nhẵn số tiền con vất vả xứ người dành dụm gửi về mà còn giết con chó nhà nuôi làm nhân bánh biếu sư, báng bổ Phật giới. Nhưng khi con về, bà lại nói bao nhiêu tiền con gửi bà đã đem dâng cúng cả vào đền chùa.
La Bộc đinh ninh như thế, khi mẹ chết, sau khi chịu tang mẹ ba năm, ông đi về nơi đất Phật và xin ở lại tu luyện theo hầu. Phật giao cho thầy Kha Na cắt tóc ông, đưa ông về chùa Lã Bí ở rừng Quít Sơn tu và đặt tên hiệu là Đại Mục Khiên Liên. Muốn đến rừng Quít Sơn phải đi qua chùa Thiên Giai là nơi những âm hồn lẩn quất nghe kinh. Mục Liên giật mình chỉ thấy hồn cha mà không có hồn mẹ. Phật hiện lên bảo rằng: mẹ ông khi sống điêu ngao, gian ác, lừa lọc nên bị đày xuống ngục - A Tỳ (âm ty địa ngục). Sau khi tu luyện chứng quả, Mục Liên lập tức tìm xuống địa ngục và tận mắt chứng kiến cảnh mẹ đang chịu muôn ngàn cực hình khủng khiếp. Gặp con, người mẹ vô cùng ân hận khóc lóc xin con tìm cách cứu bà ra khỏi địa ngục. Người con dắt tay mẹ đi nhưng lũ quỷ không cho đi.
Mục Liên cầu cứu đức Phật. Ngài chỉ rằng dù đã có phép thần thông, dù lòng hiếu thảo của ông có thấu trời đất nhưng một mình Mục Liên không thể cứu được mẹ bởi nghiệp chướng quá nặng. Phật dạy, phải thành kính đi rước chư tăng - nhất là các vị tu tập đã chứng quả - khắp mười phương về đồng tâm hiệp ý cầu xin cứu rỗi mới có thể cứu vong linh mẹ thoát khỏi địa ngục. Ngài chỉ dẫn, Mục Liên phải chăm lo cho các chư tăng chu đáo, nhằm ngày rằm tháng bảy lập trai đàn cầu nguyện. Phật dạy các chư tăng không chỉ chú tâm cầu nguyện cho mẹ Mục Liên thoát khỏi địa ngục mà đồng thời phải cầu nguyện cho ông bà tổ tiên bảy đời của thí chủ được hoàn toàn siêu thoát.
Quả nhiên, sau đó mẹ Mục Liên được giải thoát khỏi kiếp ngọa quỷ nơi địa ngục mà sinh về cảnh giới lành và tổ tiên cũng đều được siêu thoát. Đó là sự tích lễ Vu Lan - rằm tháng bảy. Về chữ nghĩa, thực ra chữ Vu Lan có nguồn gốc từ chữ Sanscrit là Ullambhana được phiên âm sang tiếng Hán Việt là Ôlambàna và đọc thành Vu Lan bồn, nói tắt là Vu Lan và nghĩa gốc của nó là sự giải thoát.  
Tích xưa cho thấy, những người gian ác nơi trần gian khi chết sẽ bị đày xuống chín tầng âm ty địa ngục và lòng hiếu thảo của con người cần không ngừng hun đúc để không chỉ cảm hóa đồng loại mà còn phải cảm động cả trời Phật. Chỉ có thế mới cầu siêu thoát được cha mẹ và ông bà tổ tiên ở thế giới bên kia.

Chủ Nhật, 18 tháng 8, 2013

TRƯỜNG CA BIỂN - HỮU THỈNH 3

TRƯỜNG CA BIỂN

Chương năm:

Hóa thạch những dòng sông

Những dòng sông quờ quạng tìm nhau
Dưới đáy biển
Những dòng sông chết
Biểm âm u đáy huyệt
Hồn sông đi lang thang
Sông về trước thì được ung dung
Sông về sau thì làm phó nhỏ
Bóng cầu theo về được làm quan văn
Mái chèo theo về thì làm quan võ
Người kết bè kéo vó
Hết sông đi vớt bèo
Những dòng sông dưới đáy biển tìm nhau
Vừa thấy bóng lại thủy triều xô dạt
Mênh mông đến và mênh mông xóa mất
Sông lại lang thang
Tiếng hú gọi làm giật mình cá quẫy
Sông Mã to tiếng
Sông Hương dịu dàng
Sông Hồng kẻ cả
Sông Thương đa mang
Ai biết được những gì khi sông về gặp biển
Nơi cá quay đầu thì phù sa tìm đến
Phù sa còn bao nỗi nông sâu
Sinh ra biển để xa xôi
Sinh ra trời để thuận hòa
Sinh ra sông để đem cho
Cho những buổi trưa đàn trâu mộng dầm mình trong nước sánh. Cho bên lở bên bồi tạo hóa buộc lòng bất công dằng dặc. Cho lóng một lóng đôi rổ rá giần sàng, che chắn gió biến thành kẻ ăn người ở.
Cho bên ấy bên này diệu vợi, cả tiếng gọi đò cũng là quà tặng của dòng sống
Khi gặp biển đó là lúc sông đem cho lần cuối, một cuộc cho trọn vẹn huy hoàng như thơ cho, như mùa dâng quả, cô gái biến thành nàng dâu để lại sau lưng bao tiếng thở dài. Và khi không còn gì để cho, sông như tráng sĩ không còn vũ khí, giáo chủ không còn mật kinh, võ sư không còn bí quyết; sông như nghệ sĩ đã nắm xong vai, một kẻ trắng tay giàu có đo mình bằng kích thước của biển.
Đức hạnh của sông là đa mang
Dung nhan của biển là bình thản
Vẻ đẹp của sông là không tỉnh táo
Nỗi khổ của biển là sở hữu khôn cùng
Sông - những cây nước khổng lồ
Bóng mát mệt mê man mang bồi đắp
Sông góp củi cho nồi cơm lớn
Lòng vị tha là người khách sau cùng
Dưới đáy biển
Sông lang thang tìm lại các dòng sông
Trên mặt sóng
Đảo đang vào mùa nắng
***

Thứ Ba, 13 tháng 8, 2013

HOÀNG THANH HƯƠNG HÁT TRONG MÙA GIÓ



Những đứa trẻ

Lội xuống bùn
Cánh đồng cuồn cuộn nghiêng
Rau xếp xếp chồng chất
Từng cọng muống hình tay
Chợ quê chiu chắt
Lũ trẻ quần
Bì bọp lùa vịt
Bản hòa âm cạp cạp
Môi tím, chiều tím, ý nghĩ tím

Kẻ bám chặt thị thành
Mắt bụi, miếng cơm bụi, nụ cười bụi
Hoa bụi, ghế bụi, ý nghĩ bụi
Ngập ngừng chìa tay
Đắn đo lòng tốt
Chân sải những láng ốp xi đá
Thập thò mắt
Khuôn mặt bạn bè, âm mưu sau tóc
Chiều chiều chóng mặt
Rú gầm lũ trai bốc hỏa
Gốc bằng lăng già
Bụi trùm trắng xóa

Những đứa trẻ cánh đồng
Sách nhét sau mông
Quần cộc
Bản hòa âm cạp cạp
Môi tím, chiều tím, ý nghĩ tím...

QN,13-11-2011


Chủ Nhật, 11 tháng 8, 2013

TRƯỜNG CA BIỂN -HỮU THỈNH 2

TRƯỜNG CA BIỂN

Chương ba:

Tự thuật của người lính

Tôi sinh ra trước lúc lên đèn
Bóng mẹ sáng lại mờ trong mắt cha hoảng hốt 
Trong căn nhà đất
Tháng hai buồn tiếng thạch sùng kêu
Mẹ đã dắt tôi qua những miệng vực sâu của mọi sự rủi ro
Qua nhịp cầu không có tay vịn
Tiếng kẹt cửa cũng trở nên gió ớn
Khi con sài mẹ ngồi thức qua đêm
Nhà khó con đàn gió lọt qua phên
Kèo cột cũng khô gày nữa mẹ
Châu chấu cào cào xanh tím rủ tôi đi
Những đồi cỏ may những bờ trống ếch
Cây bưởi ca dao cây cau cổ tích
Tôi âm thầm nuôi bống bống trong chai
Con mang về con bống của mẹ đây
Từ những ao chuôm nghìn xưa để lại
Họ quát mắng rồi ném bùn xua đuổi
Con đi hôi cắp giỏ đứng trên bờ
Con tới đâu cũng gặp toàn đồng cấm
Họ rải tung cả gánh cỏ tuổi thơ
Vỏ trấu rắc khắp cánh đồng dải áo
Lũ chuột đồng chép miệng trong hang
Con đi mót gặp toàn gốc mạ
Chiếc nón mê tha thủi giữa đồng
Đồng vắt kiệt nằm than trong giá bấc
Trâu húc nhau chạch rúc xuống bùn
Chồng bấm vợ nhảy qua rào trốn thuế
Tiếng trương tuần thét lác đầu thôn
Không không không mẹ dặn tôi không
Ngọt chả sợ đường đường không sợ lội
Cha đi vắng tôi trèo lên cây ổi
Cây ổi cho một búp sâu kèn
Và cứ thế với sâu kèn tôi hát
Cố tin rằng tôi không bị bỏ quên
Trứng ốc nhồi nở trắng dọc bờ ao
Con ếch sọc dưa đi tìm tức tưởi
Trời sùi sụt những con mưa tháng bảy
Tôi ngấm đầy nước mắt những ngày ngâu
Đom đóm ơi đom đóm dẫn đi đâu
Đêm là tàu là sen che nửa phần trái đất
Ấy là lúc những vì sao xa lắc
Nối với tôi qua một sợi dây diều
Hòn sỏi lăn qua đồi sống trâu
Con cun cút lách mình trong cỏ chỉ
Tôi đâu biết có ngày xa mẹ
Mùa đông rồi hoa chít vẫn ngây thơ
Mặt đất bằng bỗng nỗi loạn tê tê
Tổ mối nhỏ cũng bao lần tan hợp
Chim ngói cả tin mắc lồng oan nghiệt
Ngọn tơ hồng cết nghẹn giữa bòng bong
Cơn ốc đen đánh úp lá bàng
Tôi cảm thấy mùa thu đang mất máu
Một chút lửa hoa dong riềng cuối dậu
Sợ một ngày sương muối đến đem đi
Không ai nói với tôi rằng hoa bưởi sắp tàn
Chiều chỉ có một mình chim gõ kiến
Hoa sim tím quả sim cũng tím
Đồi treo đầy những túi mật trung du
Chiếc đuôi chồn mất hút giữa lau thưa

Thứ Bảy, 10 tháng 8, 2013

TRƯỜNG CA BIỂN- HỮU THỈNH


Nhà thơ Hữu Thỉnh


TRƯỜNG CA BIỂN

Chương một:

Đối thoại biển
Đến một ngày kia những người lính đã tới biển của mình. Cuộc gặp gỡ của triệu năm với đứa con trận mạc. Không chỉ là người lính lạ lẫm, chính biển lạ lẫm đầu tiên. Biển thốt lên: "Người sắp thắng trận sao mà hốc hác quá".
Những người lính cầm le ta cành sú hoe vàng, cầm luôn cả một miền che chở mới. Người lính nói: "Tôi đi qua nhiều bóng mát để về đây".
Bóng mát đã lùi xa. Mực tím đã trải lại cho tuổi học trò. Tiếng gàu sòng đã trả về cho cơn hạn hán. Trước mặt là biển, bốn bề là biển, hình như phải nói một câu gì với biển.
Và người lính nói:
- Hôm nay tôi thấy biển lần đầu.
Biển nói:
- Mái gianh nhà anh không nói thế
Vại nước gốc cau nhà anh không nói thế
Người lính nói:
- Tôi phải làm gì.
Biển nói:
- Sống với nước hãy bắt đầu từ nước.
Đó là, nghi lễ đầu tiên và nghi lễ cuối cùng
Người lính nói:
- Mẹ dặn tôi: Ra sông lấy sóng mà yêu
Đường xa gặp núi lấy đèo mà tin
Tôi đã tin và chưa hề bị ngã.
Biển nói:
- Không ngã chưa chắc đã khỏi chìm
Người lính nói:
- Có bí quyết gì sau sóng kia chăng?
Biển nói: 
- Sống với nước hãy bắt đầu từ nước.
Người lính nói:
Tôi đã đi suốt hai đầu đất nước.
Biển hiu hiu thán phục
- Những vết thương của tôi nhiều hơn cả tuổi đời
Biển hiu hiu thán phục
Và biển chỉ hỏi anh đơn giản điều này:
- Anh có biết bơi không?
Người lính nói:
- Không phải ai cũng biết bơi. Thế mà sao vẫn rất nhiều cái huơ tay hãnh tiến.
Biển nói:
- Họ đang bơi trên số phận của mình
Một nửa trí khôn của con người là tìm cách chứng nhận mình và chứng nhận lẫn nhau.
Người lính nói: 
- Cây không đi tìm gió, nhưng kẻ thù sẽ đến tìm ta. Ta lấy gì để che mắt chúng? Màu cát hay màu biển.
Biển nói:
- Còn lại một mình anh
Người lính nói:
- Tôi phải làm gì?
Biển nói:
- Sống với nước hãy bắt đầu từ nước.
Người lính nói:
- Tôi có nhiều bạn
Tôi cầm tay nhiều người
Nhiều người cầm tay tôi
Tôi sẽ gọi tên ai đầu tiên trong cơn khát biển?
Biển nói:
- Kẻ thù nói ngoài khơi có vàng và tìm cách cướp vàng
Bạn bè nói ngoài khơi có sóng dữ và chia sóng cùng anh
Hãy gọi ai không biến sóng dữ của kẻ khác thành quà tặng cho mình
Người lính nói:
- Bao năm rồi tôi nhìn mây biết gió nhìn cỏ biết mưa, cả cánh buồm cũng giúp tôi chạy thóc và nhà trước khi cơn giông đến. Gió ấy, cỏ ấy và cánh chuồn mau mắn ấy có giúp gì tôi ở biển?
Biển nói:
- Đó là những đồng tiền để tiêu trên mặt đất
Người lính nói:
- Bao vốn liếng cả một đời góp nhặt
Bước xuống tàu bỗng thành kẻ tay không
Biển nói:
- Những chiếc huân chương còn soi sáng trên bờ Sống Với nước hãy bắt đầu từ nước
Người lính nói:
- Xin tạm biệt những dây hòm dây cóc day mai
Đến thay đôi thiếu đứt
Giúp ta xong buổi cày
Xin tạm biệt những cử nâu me mệt ngủ
Chín dần bên dấu chân voi.
Xin tạm biệt những buổi trưa bát vở những buổi tối hết dầu những ban mai thổi lửa.
Tạm biệt em, nỗi éo le của anh, dang dở của anh, cay đắng của anh; tạm biệt cơn khát tình vằng vặc.
Em đã đến thở than trên sáo trúc
Xua đêm đi thành mộng mị đời anh...

Chủ Nhật, 4 tháng 8, 2013

CHÙM TRUYỆN NGẮN PHƯƠNG TRÀ

Tác giả Phương Trà tên thật là Trịnh Thị Phương Trà, sinh năm 1976, hiện đang công tác tại báo Phú Yên. Chị bắt đầu sáng tác khá sớm, nhưng không công bố những tác phẩm đã viết ở thời kỳ đầu, bởi một suy nghĩ: mình có thể viết hay hơn nữa. Tháng 7/2013, Phương Trà ra Hà Nội tham dự lớp Bồi dưỡng viết văn Nguyễn Du khóa VII, chị đã khiến các nhà văn – giảng viên bất ngờ trong những giờ trả bài khi phát hiện ra một tác giả văn xuôi vùng đất Phú Yên đầy triển vọng. trân trọng giới thiệu ba truyện ngắn Phương Trà chọn và gửi đến chia sẻ cùng bạn đọc.
Tác giả Phương Trà (ảnh: Vũ Long)

Người mẫu

- Em tên gì?
- Dạ, em tên Mai.
- Em đến đây lâu chưa?
- Dạ, hơn hai năm rồi.
- Em ở miền Tây à?
Thằng bạn ngồi bên cạnh hấp háy mắt, ý nói không ở miền Tây, chẳng lẽ ở miền Bắc? Nhưng mà cũng phải nói vài câu gì đó để xua đi cảm giác gượng gạo ban đầu.
Mai (cứ gọi như vậy đi dù tám mươi phần trăm đó không phải là tên thật) không đẹp ngất ngây như lời quảng cáo của bà chủ nhưng nhìn cũng dễ thương. Mặt tròn da trắng tóc dài, hơi lạ là không nhuộm nâu nhuộm đỏ như hai cô gái ngồi cạnh bạn tôi. Mai cũng không quá bạo dạn. Cử chỉ thân mật nhất của cô là lấy khăn ướt lau nhẹ lên mặt tôi. “Anh hai sẽ thấy dễ chịu” - cô nói.
Nhạc dội vào tai. Những bài boléro mà mỗi khi hát lên, tụi bạn lại kêu nhớ quê ngoại quá! “Quê ngoại” của đám đàn ông đều ở miền Tây, nơi rất nhiều cô gái trẻ dạt ra miền Trung, làm chỗ gác tay cho bọn ngà ngà say hứng chí rủ nhau đi hát hò. Như Mai, như hai cô gái tóc đỏ tóc nâu kia.
- Anh hai chắc làm trong cơ quan nhà nước?
Mai nghiêng chai rót bia vô ly. Cô làm việc đó giống như đang biểu diễn nghệ thuật.
- Tôi vẽ tranh - Vừa trả lời tôi vừa tự hỏi mình nên nhích ra hay là ngồi sát vào cô gái này thêm chút nữa.
- Mèn ơi, anh là họa sĩ! - Cô gái kêu lên, cứ như đang đi chợ chợt nhìn thấy một tờ năm trăm nghìn ngay dưới chân mình.
- Em thích tranh à?
- Em cũng không biết nữa - Giờ thì Mai dịch ra một chút, hình như là để nhìn tôi một cách bao quát, xem cái gã nhàu nhĩ vì bia rượu này có đúng là họa sĩ không - Hồi nhỏ em thích vẽ. Má nói em vẽ giống y chang.
- Sao em không đi học vẽ?
Hỏi xong mới thấy mình cực kỳ đần. Những cô gái như Mai, những cô gái viết tên mình còn nghệch ngoạc thì làm sao học vẽ và học để làm gì? Có cái quán bia nào đưa ra tiêu chuẩn tuyển nhân viên biết vẽ đâu.
- Anh thường vẽ gì?
- Đủ thứ. Thích gì vẽ nấy - Tôi nói cho qua chuyện.
- Có vẽ phụ nữ hông?
- Có chứ. Anh vẽ phụ nữ khỏa thân. Tức là những phụ nữ không mặc quần áo. - Tôi vừa nói vừa cười, hy vọng rằng cái chi tiết không mặc quần áo sẽ chấm dứt câu chuyện tranh pháo để chuyển qua đề tài khác thiết thực hơn, nhất là khi người ta đã đi vào một phòng karaoke kín cửa cao tường.
Cô gái tóc dài bưng ly bia lên, nhấp môi một chút rồi để xuống. Đôi mắt tròn của cô đang nhìn vào một chỗ nào đó trong phòng. Rồi cô ngồi dịch sát vào, ghé tai hỏi một câu làm tôi muốn té ngửa:
- Nếu em không mặc quần áo, anh có vẽ em hông?
*

Thứ Sáu, 2 tháng 8, 2013

CÚ GIÃY CUỐI CÙNG CỦA NỀN PHÊ BÌNH CHỈNH HUẤN

Cú giãy cuối cùng của nền phê bình chỉnh huấn

Phạm Thị Hoài
Luận văn thạc sĩ của tác giả Đỗ Thị Thoan tức Nhã Thuyên , mang tên: Vị trí của kẻ bên lề: Thực hành thơ của nhóm Mở Miệng từ góc nhìn văn hóa, thuộc chuyên ngành Văn học Việt Nam, mã số 602234. Bản luận văn được Hội đồng chấm luận văn của Trường Đại học Sư phạm Hà Nội chấm điểm và hiện được lưu trữ tại thư viện trường này.
Năm ngoái, mấy cây dầu cổ thụ trong một bài thơ ít người biết đến bỗng khuấy động chút ít thi đàn Việt Nam. Tác giả, ông Đàm Chu Văn, chuyên viên cao cấp của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Đồng Nai kiêm Phó Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật Đồng Nai, Tổng Biên tập tạp chí Văn nghệ Đồng Nai, bị một đồng nghiệp thấm nhuần lập trường chuyên chính soi quan điểm chính trị. Cuối cùng mọi chuyện cũng ổn. Ông chỉ mất bốn tiếng đồng hồ giải trình sự trong sáng của mình với cơ quan tuyên giáo. Báo chí đưa tin. Đồng nghiệp Hồng Vệ binh im. Quan văn nghệ trung ương bật đèn xanh. Như trong vụ “Cánh đồng bất tận” sáu năm trước, những robot tuyên giáo ở một số tỉnh lẻ có lẽ vẫn tiếp tục chạy theo lập trình đấu tranh tư tưởng mấy thập niên quên cập nhật, nhưng thời của nền phê bình chỉnh huấn trên diện rộng ở toàn quốc đã qua rồi. Không ai đọc ai điếu cho nó. Nó đơn giản đã đóng xong vai trò kinh dị của mình trong một chương kinh hoàng của văn học sử đất nước này.
Tôi phải nhận rằng mình chưa bao giờ hâm mộ trường phái thơ mượn lời cỏ cây hoa lá để tâm tình. Khi tôi đến với văn chương thì những tâm tình đặc sắc nhất đặt vào miệng thiên nhiên đã được thốt ra rồi, từ đó trở đi cứ thấy cánh hoa nào trầm ngâm, nhành cây nào đau đáu, áng mây nào nặng trĩu nhân văn là tôi bỏ chạy. Tôi phải bảo vệ tình yêu văn chương của mình. Cũng như mọi tình yêu, chết vì buồn tẻ là nguyên nhân hàng đầu.

HẬN CÁ CHÉM THỚT

Hận cá, chém thớt
 (về luận văn của Nhã Thuyên – Đỗ Thị Thoan)

Nguyễn Vạn Phú

Có lẽ nhiều người biết đến Hầu tước de Sade, một nhà văn Pháp sống ở thế kỷ 18, viết toàn tiểu thuyết dâm dục, miêu tả cặn kẽ chuyện làm tình, cảnh bạo dâm, khổ dâm còn ghê hơn nhiều truyện khiêu dâm chính cống. Nhưng dù muốn dù không người ta vẫn xem ông là nhà văn, thậm chí có người còn cho ông là tiên phong của chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa siêu thực…
Giả thử có một sinh viên cao học làm luận văn thạc sĩ về ông này, với luận đề “tình dục trong văn de Sade là biểu hiện nổi loạn của một người theo chủ nghĩa cá nhân cực đoan”. Có thể nào chê trách luận văn này tràn đầy những câu trích “trắng trợn” về tình dục? Có thể nào lên án người sinh viên cổ xúy cho lối sống phóng túng, bạo dâm?
Những người phê phán luận văn “Vị trí của kẻ bên lề: thực hành thơ của nhóm Mở Miệng từ góc nhìn văn hóa” của Đỗ Thị Thoan cũng rơi vào chỗ tương tự: thay vì ném sự phẫn nộ của họ vào nhóm Mở Miệng họ lại chĩa mũi dùi vào người nghiên cứu nó, tạo ra một tiền lệ chưa từng thấy: báo chí phổ thông, nhà phê bình văn học lại đi phê bình một luận văn thạc sĩ của một trường đại học. Bởi vậy họ không nói gì đến phương pháp luận, tính khoa học, cách thể hiện của luận văn, họ chỉ tìm những câu trích phục vụ cho việc phê phán nói trên.

Đáng sợ là những trường hợp, dù thú nhận chưa đọc luận văn nhưng cũng “hai lần lên diễn đàn đề nghị các cơ quan chức năng phải làm việc nghiêm khắc và xử lý thích đáng đối với tác giả bản luận văn cũng như hội đồng chấm luận văn”.
Có thể nói ngay luận văn của Đỗ Thị Thoan là một công trình nghiêm túc, công phu, được viết một cách cẩn trọng, với những quan sát sâu sắc, cách diễn đạt lôi cuốn, tính thuyết phục khá cao. Lớp già như tôi có thể tự hào về một lớp trẻ như Đỗ Thị Thoan, hoàn toàn không như định kiến thường có về một lớp trẻ hời hợt, chỉ biết sao chép. Toát lên từ luận văn này là nền học vấn rất tốt, sự làm việc tới nơi tới chốn, sự độc lập trong suy nghĩ, và sự thành thực trong nhiều nhận định.

TỪ MỘT BẢN LUẬN VĂN

Từ một bản luận văn

Đó là bản luận văn thạc sĩ văn học mang đề tài “Vị trí của kẻ bên lề: thực hành thơ của nhóm Mở Miệng từ góc nhìn văn hóa”. Tác giả luận văn là Đỗ Thị Thoan, còn được biết đến trong văn giới với bút danh Nhã Thuyên. Người nghiên cứu này còn trẻ (sinh 1986), đề tài lại về một hiện tượng của văn học đương đại rất mới mẻ, nhưng đã được bộ môn Văn học Việt Nam hiện đại của khoa Ngữ văn, Đại học Sư Phạm Hà Nội, chấp nhận cho làm. Luận văn đã hoàn thành, đã được hội đồng chấm cho điểm 10 cách đây ba năm. Bây giờ một làn sóng phê phán bản luận văn đang được dấy lên bằng những bài viết chỉ trích người làm, người hướng dẫn, người chấm, và cả cơ quan chủ quản trong việc này. Giọng điệu các bài viết rất gay gắt, phẫn nộ, đòi xử lý trách nhiệm của tất cả những ai có dính líu đến bản luận văn. Và thông tin nghe được cho biết Nhã Thuyên đã bị chấm dứt hợp đồng giảng dạy ở khoa Văn ĐHSPHN, giáo viên hướng dẫn cô cũng bị thôi chức trưởng bộ môn, và bản luận văn sẽ bị đưa ra phanh phui, mổ xẻ.

BÀI MỚI ĐẮNG

Truyện ngắn: BÊN CÁNH GÀ CHÁNH ĐIỆN _ NGUYỄN HẢI ĐĂNG

Bên cánh gà chánh điện phần 1 BÊN CÁNH GÀ CHÁNH ĐIỆN Xe dừng lại với tiếng xột xoạt trên mặt đường, như bao chuyến xe đã ghé qua từ thuở ...