Thứ Năm, 20 tháng 6, 2013

CHÂN DUNG NGƯỜI HÀNG XÓM

Chân dung người hàng xóm

Dương thu Hương

Khi tôi chuyển đến N, một thị trấn nhỏ vùng biên giới, bà cô ruột của tôi lại từ đó rời về Hà nội với đứa con gái duy nhất vừa lấy chồng. Bởi thế, bà để lại cho tôi, với giá rất rẻ, hầu như việc lấy tiền chỉ là một sự tượng trưng.
Nhà của cô tôi là một trong sáu căn nhà xây áp tường nhau, kéo một vệt dài ven phố bờ sống. Cô tôi bảo dãy nhà này của một Hoa kiều làm nghề thấu khoán xây vào cuối thời kháng Pháp rồi bán lại cho các chủ, mỗi căn giá bốn lạng vàng. Sáu căn nhà giống nhau như sáu giọt nước. Tất cả đều là nhà một tầng, lợp ngói máng rất cao. Mái trước dốc, mái sau thoải thoải kéo dài cho tới sân nhà bếp. Nhà nào cũng có một cửa ra vào và hai cửa sổ lớn cánh bằng gỗ lắp có thể mở cửa bán hàng. Mỗi nhà có hai buồng và một
gian gác xép bằng gỗ lim. Trên khoảng tường cao áp mái, người ta đục một lỗ cửa đắp hình hoa thị. Do lỗ cửa này, những câu chuyện trong nhà không thể che giấu người bên cạnh. Khi tôi dọn đến, ô cửa bên trái đã bị trát kín từ lâu. Lớp vữa khô còn in rõ những nhát bay vụng về. Ô cửa tường bên phải vẫn để ngỏ. Cô tôi giải thích:
- Cái cửa kia thông sang gian gác nhà Lý Ung nên phải trát kín đi. Lão ấy mặt dơi tai chuột, gian giảo lắm. Còn cái cửa này cứ để nguyên cũng được. Bên ấy là nhà chú Lý Xuân. Chú ấy là người hiền lành, ngay thật...
Vợ tôi im lặng nhìn tôi. - Tôi mỉm cười:
- Thế là ta có hai hàng xóm trái màu đấy. Nhớ lời cô dặn mà xem xét...
Cô tôi còn dặn dò chúng tôi một lô kinh nghiệm sống, cách xử thế, những việc linh tinh, những nhân vật đáng chú ý ở cái phố miền sơn cước mà bà đã sống quá nửa cuộc đời. Sau đó cô đi xem xét lại toàn bộ căn nhà với vẻ bịn rịn rồi bảo tôi đưa ra ga. Khi làn khói trắng của còn tàu tắt dần giữa các vách đá tôi quay lại thị trấn. Con đường bụi mờ mờ trải dưới chân tôi vệt son dài hoang dã. Một nỗi lo âu mơ hồ đè nặng trong tim: Tôi sắp sửa sống ở một vùng đất mới, với những con người mới. Không có ai quen thuộc ở nơi đây. Phải, mối quan hệ lớn nhất bây giờ là quan hệ với những người hàng xóm... Chiều hôm ấy, cơm xong tôi lững thững ra sân. Trời êm ả. Mùi hoa móng rồng ở bức tường sau bếp toả ra thơm nức. Tôi ngồi xuống ghế, nhìn những vách núi rực nắng chồng chất ở chân trời phía Tây. Tiếng một người bất chợt cất lên:
- Anh chị mới đến ở đây?...
Tôi quay lai. Bên kia hàng rao trồng đậu đũa, một người đàn ông tơi cười nhìn tôi, hàm răng lấp lánh.
Ngay tức khắc, tôi hiểu đó chính là Lý Xuân. Tôi vồn vã trả lời:
- Chúng tôi mới chuyển công tác lên đây. Cô tôi để lại cho cái nhà này...
Người đàn ông gật đầu lia lịa:
- Ô, lên đây ở cho vui... anh em áo ngắn cả mà. Trước bà Ân với nhà tôi cũng quí nhau lắm...

Chủ Nhật, 16 tháng 6, 2013

GIANG HỒ - PHẠM HỮU QUANG

Thơ: “Giang hồ” - Phạm Hữu Quang

1
Tàu đi qua phố tàu qua phố
Phố lạ mà quen ta giang hồ
Chẳng lẽ suốt ngày bên bếp vợ
Chẻ củi trèo thang với… giặt đồ

Giang hồ đâu bận lo tiền túi
Ngày đi ta chỉ có tay không
Vợ con chẳng kịp chào xin lỗi
Mây trắng trời xa trắng cả lòng

Giang hồ ta ghé nhờ cơm bạn
Đũa lệch mâm suông cũng gọi tình
Gối trang sách cũ nằm nghĩ bụng
Cười xưa Dương Lễ với Lưu Bình

Giang hồ có bữa ta ngồi quán
Quán vắng mà ta chửa chịu về
Cô chủ giả đò nghiêng ghế trống
Đếm thấy thừa ra một gốc si


Chủ Nhật, 9 tháng 6, 2013

BÁU VẬT CỦA ĐẠI GIA

Báu vật của đại gia

Truyện ngắn của Nguyễn Toàn Thắng




Dinh thự của đại gia Tháu - Tổng giám đốc một công ty lớn - mất bảo vật. Một đôi sừng thú quý hiếm, có tên trong sách đỏ từ ngày đầu xuất bản. Loài thú này nghe đâu chỉ có trong truyền thuyết, hiếm hoi lắm đại gia Tháu mới sở hữu được. Thế mới là quý, chứ sừng tê ngà voi thì quá dễ mua, miễn là có tiền. Người xưa còn truyền lại rằng, ai cầm đôi sừng con thú ấy bước xuống nước thì làn nước tự rẽ làm đôi. Đấy là ngày xưa thôi, chứ bây giờ cần gì phải cầm để xuống nước, đã đến cỡ mua được sừng rồi thì đủ tiền mua luôn cả tàu ngầm lặn ngắm san hô cho nó đẹp, chứ cầm đôi sừng đi xuống nước thời này lại chẳng giống bệnh nhân tâm thần lắm hay sao? Chưa ai thử công dụng tránh nước, chứ công dụng chữa bệnh trên bảo dưới không nghe của đôi sừng này thì đã danh bất hư truyền từ lâu. Nghe nói, chỉ cần mài một chút bột sừng hòa với nước hai sôi ba lạnh là đã đủ trả bài một trăm hai mươi phút không kể thời gian chép đề. Chẳng may đổ nhầm bột sừng vào bát mỳ tôm, tức thì sợi mỳ đứng lên vuông 90 độ không thiếu độ nào.
Đại gia Tháu đau xót lắm. Mất của đã đành. Lại còn mất uy tín. Bởi đây là đồ ông được biếu và đã hứa biếu tiếp cho một ân nhân khác. Ngày trước, khi còn tay trắng, ân nhân ấy đã giúp đỡ ông Tháu được như ngày hôm nay. Còn việc ân nhân này có biếu ai nữa hay để dùng thì chưa biết. Mà gã trộm nào cũng ác, có con mắt tinh đời, lấy ngay đồ quý nhất. Đại gia Tháu khẩn cấp đi trình báo mất trộm. Làm tổng giám đốc một công ty lớn, ông phải làm việc theo nguyên tắc, theo quy định để người ta còn trông vào. Thiếu gì đại gia chỉ vì một câu nói, một hành vi bột phát mà rồi thân bại danh liệt, ôm hận thiên thu.
Dư luận cũng rất quan tâm. Nhìn từ xa, dinh thự của đại gia Tháu như một pháo đài. Giữa một làng quê nghèo. Kín cổng cao tường. Làm sao mà trộm lại vào được nhỉ? Nào camera quan sát, nào đàn chó dữ được huấn luyện qua trường lớp, con nào con nấy đều xứng đáng được đứng trong hàng ngũ chó đặc nhiệm, rồi đến tầng lớp bảo vệ ai nấy mặt mũi đều căng thẳng và nghiêm trọng trong giờ làm việc. Thế thì trộm đúng là có đẳng cấp và rất có thể đến từ một tổ chức mafia cỡ tỉnh trở lên, chứ tầm huyện thì chưa đủ sức. Dư luận tha hồ bàn tán. Người thì hả hê lắm, đáng kiếp, ai bảo cậy có tiền. Người thì ôn hòa hơn, công nhận trộm càng ngày càng có bản lĩnh và chuyên nghiệp. Người lại lên tiếng, sao đại gia Tháu lại được sở hữu thú quý hiếm trong danh mục cấm?

Thứ Bảy, 8 tháng 6, 2013

CÓ MỘT DANH HIỆU NGHE MÀ ...NGẠI!

CÓ MỘT DANH HIỆU NGHE MÀ… NGẠI!


“Nhà thơ”, “Thi sĩ”, “Thi nhân”, “Người thơ”… là những từ dùng để gọi những người tham gia làm một thứ văn chương có vần vè, thanh điệu, trầm bổng du dương (!)… Cái thứ văn ấy người ta gọi chung là văn vần (để phân biệt với văn xuôi), mà “tên thường gọi” của nó là… Thơ!
Tôi có làm thơ, vậy thiên hạ gọi tôi là… Nhà thơ! Điều ấy không sai, đôi khi còn là niềm tự hào nữa ấy chứ! Nhưng xin thưa, mỗi lần giữa đám đông, trong cuộc gặp gỡ nào đó, được người ta giới thiệu như vậy, thú thật, tôi có cảm giác rất ngại ngùng, xấu hổ!
Cái cảm giác ấy bắt nguồn từ nhiều lẽ. Xin dẫn một ít.
Lẽ thứ nhất: Với cá nhân, tôi thường tự vấn mình đã xứng đáng để được mang cái danh hiệu cao đẹp ấy chưa? Những cái mình viết ra có thực sự đã là thơ chưa? Nó có đạt được chút ít giá trị gì về mặt văn chương học thuật chưa, có ích gì cho ai chưa? v.v… Dĩ nhiên, những băn khoăn ấy làm sao tôi vượt qua được sự chủ quan, thiển cận của mình mà lý giải, mà tự đánh giá được! Nó hoàn toàn thuộc về sự cảm thụ, nhận xét của bạn đọc và qua thời gian sàng lọc.
Lẽ thứ hai: Đó là hiện tình bát nháo các loại thi nhân! Tôi đồ rằng ai cũng đã từng gặp không ít người có viết một số gọi là thơ, rồi tự xưng mình là “nhà thơ”, tự xưng hẳn hoi, không gọi đích danh hai chữ “nhà thơ” thì liền bị họ vặn vẹo, nhắc nhở phải gọi như thế mới phải! Họ “muốn” và “bắt” mọi người phải gọi mình như vậy! Rồi hiu hiu tự đắc, tự mãn, rồi ồm ồm đọc thơ, rồi cao đàm khoác luận tràn cung mây về thi phú, rồi chê khen thơ của “thằng” này “con” nọ, như một vị “ngự sử” trên văn đàn, khiến người nghe như bị tra tấn cực hình, vì chưa chắc “tay nghề” và những kiến thức phổ thông về thi ca của họ đã chuẩn, đã hay!
Lẽ thứ ba: Cũng là một loại bát nháo khác nữa. Ấy là những quan niệm sống quái gở. Có lắm anh “nắn nót miễn sao nên bốn vế/ Không thơ thì cũng cóc cần thơ” (Lưu Trọng Lư) đã vội cho mình là “nhà thơ”. Mà nhà thơ thì phải… khác người thường! Phải lúc nào cũng lâng lâng say xỉn, bơ phờ bộ dạng, ngố ngác mặt mày, lôi thôi ăn mặc… mới ra dáng phiêu bồng cùng nàng thơ về nơi huyễn mộng; phải “em út” tình tang để thể hiện sự đa tình đa cảm của bậc thi nhân, phải ăn nói hoa hòe hoa sói mới đáng mặt con người chữ nghĩa, phải xem bốn biển là nhà còn nhà là quán trọ mới xứng danh lãng tử, tài tử… khiến cho khổ vợ phiền con!...
Lẽ thứ tư: Xấu hổ vì thói thường suy nghĩ và đánh giá của xã hội về cái từ “nghệ sĩ”. Đám đông ít người phân biệt rõ rành nghệ sĩ biểu diễn và nghệ sĩ sáng tạo. Thấy số đông (“số đông”, không phải toàn bộ) những nghệ sĩ biểu diễn nhờ “trời cho” có được ngoại hình tốt, giọng hát hay thì đâm ra kệch cỡm hợm mình, từ cách biểu diễn đến cách ăn mặc lố lăng, đến lời ăn tiếng nói, đến lối sống buông thả… thì đánh đồng luôn “nhà thơ” cũng là một giống “hát hò ngâm vịnh”, “nghệ sĩ” với nhau, có gì mà… “ghê gớm”!...
Và một lẽ nữa, không làm chết ai, nhưng cũng vô cùng khó chịu! Ấy là việc đánh đồng nhà thơ với anh thợ… viết! Cái này thường gặp nhất. Khi được giới thiệu là “nhà thơ” thì thế nào cũng nhận được những câu “khích lệ” rất… trân trọng (!): “Làm bài thơ về cuộc nhậu hôm nay đi, hay đấy!”, “Thế này mà anh không có thơ về nó à?”, “Làm một bài về kỷ niệm này nhé!”,  “Làm một bài về căn nhà mới của tôi đi!”, “Làm giùm một bài để tôi tặng người kia với!” v.v… Những đề nghị không cần đếm xỉa gì đến cảm xúc, cảm hứng, tư duy… của người làm thơ cả!

NHÀ VĂN ANH LÀ AI?

Nhà văn, anh là ai?

Ma Văn Kháng 
alt
1.
Năm ấy, Pablo Neruda(1) nhà thơ Chilé, thi sĩ của tình yêu và đồng quê, giải Nobel văn học 1971, là ứng cử viên trong một cuộc bầu cử Tổng thống ở đất nước mình. Trả lời câu hỏi của các phóng viên báo chí: Nếu được bầu vào ngôi vị nọ, liệu ông có tiếp tục viết nữa không? Neruda thản nhiên đáp: - Với  tôi, viết là hít thở. Tôi không thể sống mà không hít thở và tôi không thể sống mà không viết.
Neruda làm chúng ta nhớ đến cuộc nói chuyện của Hồ Chủ tịch với một nhà thơ Liên Xô. Trong cuộc trò chuyện của hai người, khi được nhà thơ đến từ đất nước Lénine và Pushkin ca ngợi mình là một nhà thơ, Bác liền lắc đầu bảo: không phải. Và khi nhà thơ nọ tỏ vẻ ngạc nhiên thì Bác hỏi: Tôi hỏi đồng chí, đồng chí là nhà thơ, không làm thơ, đồng chí có chịu được không? Rồi như chỉ chờ nhà thơ Liên Xô đáp: Thưa Chủ tịch, làm thơ là lẽ sống của tôi. Thì Bác cười: Đó, như vậy đồng chí mới là nhà thơ. Còn tôi, chỉ thi thoảng mới làm mấy câu thơ thôi. Tôi còn những việc khác. Tôi không phải là nhà thơ.
Tài tình chưa, Bác đã gián tiếp cho ta một định nghĩa về nhà thơ thật sinh động và đầy đủ. Có khác gì định nghĩa đã viết sau đây ở trang 1277 - 1278 trong Đại từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin phát hành năm 1999: Nhà thơ /văn là người chuyên sáng tác thơ / văn, có tài năng có tác phẩm có giá trị được thừa nhận.
Theo các tiêu chí ghi trong định nghĩa  này, như nước ta vốn xưng nền văn hiến đã lâu, có tất cả là bao nhiêu nhà thơ, nhà văn? Chưa thấy ai làm việc tổng kê này. Nhưng chắc chắn số lượng không thể ít. Cả một khu rừng  cây cối xum suê. Đặc biệt là những ngày này, với Hội Nhà văn của chúng ta. Thành ra, ngỡ ngàng trước cảnh đồng nghiệp đông đúc trong buổi tiễn đưa thi sĩ Xuân Diệu về cõi Vĩnh hằng, Phạm Tiến Duật cảm động và bâng khuâng bảo tôi: Rất có thể là từ  một cơn ngẫu hứng tài tình của non sông đất nước mà trên thế gian này đã có mặt bọn nhà văn nhà thơ chúng ta đấy, Ma Văn Kháng à!

2.
Nhà văn! Anh là ai và từ đâu đến với cõi đời này? Có khi nào anh nghĩ, mình là một nhân vật xa lạ và sự xuất hiện của anh là một ngẫu sự, một bất ngờ với thế giới này? Có thể  là anh không nghĩ. Nhưng mà quả thật là có chuyện ấy. Trần Đăng Khoa đó. Tám tuổi với những bài thơ đầu tiên, nhà thơ tí hon này đã gây sửng sốt với ngay cả ông anh trai gần cận của mình, nhà thơ Trần Nhuận Minh. “(Thơ này) mày chép của ai, hử?”(2) Chứ đâu đã đến lượt đại thi sĩ Xuân Diệu giật mình. Trần Đăng Khoa, một đột biến, một ngẫu nhiên, một tự chọn lựa! Chẳng một ai biết trước và tuy cũng có người đã gắng công giải mã hiện tượng này nhưng xem ra đều không thỏa đáng, nghĩa là sự xuất hiện của thi sĩ thần đồng này, đến nay vẫn còn đó như một trò chơi trí uẩn của  tự nhiên với con người.(3)
Nhà văn! Vậy là anh đã đến, nhưng công việc của anh là gì ở cuộc đời này? Hỏi vậy là vì tôi còn nhớ, trong một cuốn sách phổ biến khoa học thường thức đọc đã lâu, chính là một nhà khoa học có tên tuổi đã nói rằng, thực sự ra, cái gọi là sáng tạo vốn chỉ là phẩm chất dành riêng cho nhà văn và các nghệ sĩ nói chung thôi.  Là bởi vì, dẫu rằng việc người ả Rập sau khi tìm ra con số 1 và phải những 15 thế kỷ sau, người ấn Độ mới tìm ra con số không (0) là một phát minh vĩ đại, thì nó cũng chỉ giống như Christophe Colomb tìm ra Châu Mỹ. Cũng giống như nhà thiên văn nọ tìm ra một ngôi sao mới. Vì lục địa Châu Mỹ là cái đã có trong hiện thực và ngôi sao cũng vậy, nó vốn đã tồn tại trong vũ trụ. Tất cả đều đã có trong tự nhiên. Trong khi đó, sản phẩm của văn chương và nghệ thuật thì lại thuộc dạng khác hẳn. Và như vậy, chưa có thì theo nhu cầu và quy luật của sự phát triển, tất sẽ có Lavoisier, Faradei, Mendélev, thậm chí cả Newton, Einstein... còn như Beetthoven, Nguyễn Du thì không thế, họ chỉ xuất hiện nhờ cái ngẫu hứng may mắn của lịch sử thôi.
Nhà văn, kẻ sáng tạo ra cái chưa hề có trong hiện thực! Chưa hề có trong hiện thực! Các nhà khoa học yêu kính! Xin hãy rộng lượng tha thứ nếu điều tôi nói trên đây là một sự ngộ nhận - khốn thương, vì nó chỉ là thể hiện cái thói tật ăn cây nào rào cây ấy và tính ái kỷ thông thường của những kẻ quá yêu mình và nghề nghiệp của mình!

3. 

Thứ Năm, 6 tháng 6, 2013

5 THI PHẨM VIẾT VỀ MẸ QUA LỜI BÌNH CỦA ĐỖ TRỌNG KHƠI

5 thi phẩm viết về Mẹ qua lời bình của Đỗ Trong Khơi

Đỗ Trọng Khơi

NGỒI BUỒN NHỚ MẸ TA XƯA
Bần thần hương huệ thơm đêm
Khói nhang vẽ nẻo đường lên Niết Bàn
Chân nhang lấm láp tro tàn
Xăm xăm bóng mẹ trần gian thuở nào
Mẹ ta không có yếm đào
Nón mê thay nón quai thao đội đầu
Rối ren tay bí tay bầu
Váy nhuộm bùn, áo nhuộm nâu bốn mùa
Cái cò... sung chát đào chua...
Câu ca mẹ hát gió đưa về trời
Ta đi trọn kiếp con người
Cũng không đi hết những lời mẹ ru
Bao giờ cho tới mùa thu
Trái hồng trái bưởi đánh đu giữa rằm
Cho giờ cho tới tháng Năm
Mẹ ra trải chiếu ta nằm đếm sao
Ngân Hà chẩy ngược lên cao
Quạt mo vỗ khúc nghêu ngao thằng Bờm...
Bao giờ đom đóm chập chờn
Trong leo lẻo những vui buồn xa xôi
Mẹ ru cái lẽ ở đời
Sữa nuôi phần xác, hát nuôi phần hồn
Bà ru mẹ... mẹ ru con
Liệu mai sau các con còn nhớ chăng
Nhìn về quê mẹ xa xăm
Lòng ta... chỗ ướt mẹ nằm đêm mưa
Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa
Miệng nhai cơm bũng lưỡi lừa cá xương.
NGUYỄN DUY
         Bình:
         Nguyễn Duy là cây bút thơ lục bát đẳng cấp cao. Giọng lục bát của Nguyễn Duy cũng khá phong phú. Khi thì sâu lắng, thôn trang, mực thước, cổ điển. Lúc lại ba la bông lông, bụi bụi, phố phường, trẻ trung hiện đại. Mối quan tâm của thơ Nguyễn Duy cũng rộng. Hầu như cảnh đời, phận người nào trong đời này đều đã bước vào cõi thơ ông. Từ người mẹ, người bà, người vợ, người em gái gần gụi, hay thoáng qua chợt gặp, người nông dân, công nhân, người lính, người xa xứ; cảnh sắc thiên nhiên, mùa vụ, như cây lúa, cây tre, bông mai vàng, bông lục bình.v.v... Dường như Nguyễn Duy đã tạo ra cho thơ ông cả một đời sống, một thế giới. Trong cái thế giới thơ – và, thơ lục bát Nguyễn Duy đó thì thơ viết về người phụ nữ - bà, mẹ, vợ, người em gái – là một mảng thơ khá đặc sắc. Bài thơ Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa là một trong những bài hay nhất, gây xúc động nhất.
         Buồn nhớ mẹ, mất mẹ là một nỗi buồn rất lớn, rất sâu. Sâu suốt kiếp người, nên nói không cùng, đi không hết. Sinh làm người, ai chả có mẹ, chả bắt đầu từ mẹ, từ hít hà, bú mớm, cưng nựng, lon ton, rồi lớn khôn, thành ra cái thằng con người trí thức, mơ mộng và rồi làm thơ. Thơ về mẹ, về những đoạn trường thành thân con người ấy.
         Người mẹ nào sinh con, nuôi con chả chịu bao vất vả, người mẹ xứ quê – Quê Việt những năm 50, 60, 70 của thế kỷ trước, thế kỷ nô dịch - chiến tranh, càng thêm bội phần vất vả. Bản chất của thơ vốn là một tiếng ca buồn. Mẹ cũng buồn. Bởi vậy thơ lại là thơ về mẹ, sao cầm hết buồn? Nhưng, không hề chi, lo chi. Thơ là một cái buồn đẹp. Buồn của một loài trăng, đêm càng đen, càng sâu càng dứt lòng mình mà sáng. Mẹ là nỗi buồn nhân bản, buồn nhân thế. Thế thái, nhân tình có buồn cỡ mấy mẹ cũng cưu mang, ru nín được hết. Bởi vậy mang nỗi buồn mẹ vào thơ là mang điều kỳ vĩ vào cho cái đẹp. Thực là một công việc đáng làm biết mấy. Đứa con – nhà thơ kia đáng làm con của mẹ. Có đứa con nào dám so bì với hắn nữa. Chưa tin thì cứ hỏi mẹ Việt ngàn thuở qua thì rõ. Vậy mới bảo, lo chi, hề chi.
         Ta đi trọn kiếp con người
         Cũng không đi hết những lời mẹ ru...
         Ý thơ tụng ca này, đặt vào ai cũng thành ra lố, thành ra nịnh hót rởm. Nhưng đặt trước tình mẹ thấy “nịnh” thế vẫn còn nhẹ, nhẹ hều. “Nghĩa mẹ như nước trong nguồn...”  cơ mà. Cội nguồn - gốc, lớn lao lắm. Nhưng ông Nguyễn Duy chớ vội sợ mẹ quỏ mà buông bút. Ông còn có thêm lời đáng giá để dâng mẹ.
         Nhìn về quê mẹ xa xăm
         Lòng ta chỗ ướt mẹ nằm đêm mưa
         Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa
         Miệng nhai cơm bũng lưỡi lừa cá xương...
         Mẹ buồn và mẹ bao la, kỳ vỹ. Bởi vậy, viết về mẹ con có thể có lời buồn, nhưng là phận con đỏ, con thơ trước mẹ, con làm sao có tầm bao la, kỳ vỹ. Mẹ cũng quê mùa, giản dị, như áo nhuộm nâu, hơi ấm ổ rơm... Nhờ vậy con còn có cửa để mà về thưa thốt. Lời thơ giản dị, chân thành, thấm buồn và sâu lắng lẽ đời. Được mấy câu này, thế cũng đáng lắm. Hẳn mẹ vui lòng.
        

Thứ Tư, 5 tháng 6, 2013

NHÀ THƠ HỮU LOAN MỘT BÀI THƠ MẤY CUỘC BỂ DÂU

Nhà thơ Hữu Loan một bài thơ mấy cuộc bể dâu

Vũ Bằng

Với nhà thơ Hữu Loan, quá nhiều người biết, biết về bài thơ MÀU TÍM HOA SIM của ông, về mối tình của ông với người vợ trẻ :
                                “   Ngày hợp hôn.
                                  Nàng không đòi may áo cưới .
                                  . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
              Đến khi :     Em ơi ! giây phút cuối.
                                  Không được nghe em nói.
                                  Không được trông thấy nhau một lần …. “
 Vợ của ông : Cô Lê Thị Ninh, 17 tuổi : “ hương hồn người vợ bé nhỏ của Hữu Loan đã đi vào “văn học sử”. Cơn sầu của nhà thơ Hữu Loan được coi là tha thiết không kém chi cái sầu của Đường Minh Hoàng sau cái chết của Dương Quí Phi, một cái sầu “ mang mang vô tuyệt kỹ  “. (Hữu Loan thi sĩ ăn cơm kê vàng nổi tiếng vì bài thơ tím . TranNhuong.com).
Nhưng cuộc đời nhà thơ Hữu Loan lại cay cực, lại lắm cuộc bể dâu .
Sau cách mạng tháng 8, ông vào bộ đội, năm 1949 chỉ được phép về nhà mấy ngày để làm đám cưới, vài hôm sau trở lại chiến khu. Mấy tháng sau về thăm nhà, hay tin vợ chết đuối, xúc động làm bài thơ MÀU TÍM HOA SIM, bài thơ nầy trở thành một trong những tác phẩm lãng mạng  nhất thời kháng chiến, bài thơ bị cấm, nhưng vẫn được truyền tụng ngầm. Đến khi phong trào Nhân Văn – Giai phẩm, Nguyễn Bính cho đăng lần đầu tiên trên báo “Trăm Hoa”.
Đến năm 1954, sau ngày tiếp quản Hà Nội, Hữu Loan trở lại công tác tại Hội Nhà văn, làm biên tập viên cho báo Văn Nghệ.
Năm 1956, Hữu Loan tham gia nhóm Nhân Văn – Giai phẩm cùng với Phan Khôi, Lê Đạt, Trần Dần, Nguyễn Hữu Đang, Quang Dũng …
          “ Phong trào Nhân Văn – Giai phẩm bắt đầu khi hai nhà thơ Trần Dần, Lê Đạt phê phán tập thơ VIỆT BẮC của Tố Hữu là “ dòng thơ lục bát không có gì mới, nội dung vân vê kỹ niệm không lấy gì làm sâu sắc “. . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Ngày nay, nếu đọc lại những bài viết của nhóm Nhân Văn, phải công nhận là nước ta đã từng có những nhà trí thức khả kính. Đất nước ta ra nông nổi hiện nay là bởi lịch sử không chọn họ. Nguyễn Hữu Đang bị tù 17 năm (sau 7 năm được tha), Phùng Cung, tác giả truyện ngắn Con ngựa già của Chúa Trịnh : 7 năm tù giam, Vũ Duy Lân – Bộ Nông Lâm, người bị nghi là cho Nguyễn Hữu Đang 1 áo len khi đang đi tù : bị giam 7 năm mới tha, Giám đốc nhà xuất bản Minh Đức 17 năm …. Khi Hoàng Cầm cho in bài thơ “Nhất Định Thắng” của Trần Dần. Trần Dần bị mất chức và sau đó bị bắt giam. Nếu Trần Dần không dùng lưỡi lam cắt cổ, có lẽ thời gian “ở trong lao” của ông không chỉ là 3 tháng . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

HÃY VỚT TÔI LÊN TỪ ÁC MỘNG

Hãy vớt tôi lên từ ác mộng

Trần Mạnh Hảo

Trần Mạnh Hảo


Tặng nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm sau khi đọc bài thơ “ THỜI SỰ CUỐI NGÀY “ của ông vừa in trên trang Nguyễn Trọng Tạo(*)


Đêm qua đọc thơ anh Điềm tôi ác mộng toát mồ hôi :
Sông Hương nhảy lên bờ chết đuối
Cây dọc Trường Sơn bị chặt hết rồi

Đêm qua ác mộng vây tôi :
Sông Hồng nhảy lên bờ chết đuối
Trung Quốc chặn đầu nguồn nước hết về xuôi

Đêm qua ác mộng sập trời :
Biển Đông nhảy lên bờ chết đuối
Trung Quốc tràn qua cướp biển rồi

Hỡi hai chàng trai xứ Huế
Cám ơn các anh vừa nhảy xuống sông Hương cứu cô gái tự tử
Trong bài thơ “ Thời sự cuối ngày”

Xin các anh hùng hôm nay
Xin các nhà thơ hôm nay
Hãy nhảy lên diễn đàn quốc hội
Cứu lấy Biển Đông sắp chết đuối
Cứu lấy Sông Hồng sắp chết đuối

Và cứu lấy hàng triệu người như tôi
Thoát khỏi ác mộng này…

Sài Gòn nửa đêm ngày 5-6-2013

Trần Mạnh Hảo



Đ B QH DƯƠNG TRUNG QUỐC: "BÀI HỌC SỚM NHẤT TRONG LỊCH SỬ VIỆT NAM ĐÓ LÀ BÀI HỌC CẢNH GIÁC"

ĐBQH Dương Trung Quốc: "Bài học sớm nhất trong lịch sử Việt Nam đó là bài học cảnh giác"

Ngọc Quang

(GDVN) - Có biết bao nhiêu hiện tượng tương tự mà chắc rằng các vị ĐB Quốc hội có mặt tại đây đều có thể chứng kiến tại địa phương của mình. Và bài học sớm nhất trong lịch sử nhà nước Việt Nam ai cũng biết đó là “bài học cảnh giác”...
Đại biểu QH Dương Trung Quốc đã nhấn mạnh như vậy trong bài phát biểu tại hội trường Quốc hội sáng nay 30/5.
Cũng trong buổi sáng nay, khá nhiều vị đại biểu quen thuộc đã đăng đàn, với nhiều lo ngại về tình hình mọi mặt của đất nước, dù cũng đồng tình với một số đánh giá tại báo cáo của Chính phủ.
“Sang năm vừa đúng 40 năm Trung Quốc chiếm Hoàng Sa của Việt Nam
ĐB Dương Trung Quốc chuyển lời của những người làm công tác sử học tới Chính phủ: “Sang năm vừa đúng 40 năm Trung Quốc chiếm Hoàng Sa của Việt Nam (1974) và 35 năm cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc (1979), Chính phủ nên chỉ đạo sinh hoạt chính trị thế nào để ghi nhận lịch sử dân tộc một bài học sâu sắc về chiến tranh, cũng là bài học về hòa bình. Chỉ có thấm nhuần những bài học về lịch sử thì mới bảo vệ vững chắc được chủ quyền và giữ gìn hòa hiếu lâu bền với bất kỳ quốc gia nào trên thế giới”.
Các bản báo cáo của Chính phủ trình Quốc hội vào mỗi kỳ họp cách nhau 6 tháng tựa như bản chẩn bệnh định kỳ sức khỏe quốc gia, đồng thời cũng là của Chính phủ, để vạch ra các liệu pháp chữa trị. Là người có cơ hội theo dõi các bản của Chính phủ nhiều năm qua, tôi nhận thấy là có căn bệnh kéo dài lâu mà chưa khắc phục được, dường như đã trở thành mãn tính, đó là căn bệnh quan liêu với sự tăng phì bộ máy biên chế; hay căn bệnh đầu tư dàn trải, tạo ra gánh nặng ngân sách và lãng phí lớn.
Có những căn bệnh mới phát sinh nhưng ngày càng tỏ ra ác tính như nợ công, nợ xấu. Trong báo cáo của Chính phủ mới chỉ coi trọng liệu pháp tâm lý, các báo cáo thường mở đầu với thành tựu sau đó mới là hạn chế, thiếu sót, trách nhiệm và giải pháp… tất cả được nối bằng các liên từ ‘tuy nhiên’ như một tất yếu để làm an lòng người.
Nói như vậy tôi hoàn toàn không có ý định phủ nhận mà trái lại rất quan tâm đến những khó khăn khách quan mà Chính phủ đang phải đương đầu và nỗ lực đối phó với những tiêu cực tác động rất nặng nề có tính kinh tế lớn đã khủng hoảng kéo dài cùng những thách đố do hoàn cảnh chính trị.
Chúng ta núi liền núi, sông liền sông, biển liền biển với một nước Trung Hoa đang trỗi dậy, nhưng luôn gợi lại những bài học quá khứ của ông cha ta phải đương đầu. Nói cách khác đó là căn bệnh thời khí không thể không tính đến nếu muốn thân thể quốc gia cường tráng, đủ sức chịu đựng những thách thức của thời đại.
Sự ví von này không ngoài mục đích nhắc nhở rằng, sức khỏe của quốc gia không thể chỉ quan tâm ngắn hạn và một khi không chữa trị sớm thì dễ bùng phát vào cùng một thời điểm mà không lường trước được, đe dọa sự an nguy của quốc gia. 
Liệu pháp an thần không phải là không cần thiết, vì nó giúp chúng ta bình tĩnh xử lý các tình huống, nhưng nếu chỉ như thế thì căn bệnh không thuyên giảm và nguy hiểm hơn hết là mất đi ý thức cảnh giác là điều rất quan trọng.
Vì thế, xin đề cập tới một lĩnh vực mà lâu nay sinh hoạt Quốc hội ít đề cập tới, đó là vấn đề ngoại giao và quốc phòng, ít xuất hiện trong các chương trình nghị sự chung của Quốc hội và cũng thường được trình bày thoáng qua trong báo cáo của Chính phủ.

CHÙM THƠ BÁO VĂN NGHỆ SỐ 22/2013

Chùm thơ Báo Văn nghệ số 22/2013

DƯƠNG ĐỨC KHÁNH
Một sớm bên cha

Ngày mẹ sinh tôi
trời tháng mười đầy gió
có tiếng khóc của mầm măng gãy ngọn
tiếng chim non khản giọng dưới mưa dầm
giọt mưa ngập ngừng mắt mẹ
đậu chót mái tranh mòn
cha mang tơi đội nón
xin làng mấy thân tre ngã
níu tháng ngày
tuổi cột cái cột con
còn ngọn tre cong oằn mùa bão
cha chắp thân kèo treo chiếc nôi tôi
và  cha lui cui trát tấm phên tre lồng gió
bằng trạc phân trâu cha gánh dọc đường làng…

Mẹ cứ gọi tôi “cái thỏng mắm đầu giàn”
từ  ngày cha đi biệt
từ  ngày tôi biết tung tăng ra ngõ
lần cuối cùng bên cha
là buổi sớm mai sau đêm đầu súng nổ
cha dắt tay  tôi ra vệ đường làng
lượm vỏ đạn rơi
vàng ngời trong cỏ

Trò chơi con trẻ đầu đời
cha dạy tôi thổi tiếng chim kêu từ ống đồng
lạnh toát
tiếng chim chòe, chim chiện
bay ra
mùi thuốc súng khét nồng
tôi nheo mắt vào vòng tối đen ngòm 
cha ơi, rồi hòn đạn đi đâu?...

ban mai ngẩn ngơ, ban mai trĩu nặng
cha trông ra vắng lặng đồng làng
mảnh ruộng cằn nửa đời cha cày vỡ
ngày mai lúa trổ
và  cánh đồng đêm qua lửa khói đã vào mùa…

HOÀI QUANG PHƯƠNG

Thứ Hai, 3 tháng 6, 2013

Y PHỤC XỨNG KỲ ĐỨC

Y phục xứng kì đức

Đỗ Trọng Khơi

         Sự kiện chàng trai người Úc, định cư ở Mỹ là Nick Vjicic sang diễn thuyết ở Việt Nam đang tỏ ra là môt sự kiện có quy mô quốc gia, thu hút được mối quan tâm không nhỏ của bao người. Trước sự kiện này tiếng khen nhiều, nhưng tiếng chê cũng không phải là không có. Vì sao? Và với góc độ của một người khuyết tật Việt Nam, tôi có suy nghĩ gì?
         Qủa thực tôi cũng khá háo hức chờ mong ngày Nick Vujicic đến để xem thực trạng sức khoẻ Nick và được nghe anh nói chuyện. Tôi, cũng như mọi người kỳ vong vào Nick không chỉ đơn giản cho chúng ta thấy về một tấm gương vượt khó, mà là từ muôn nỗi gian khó của số phận mình, anh đã vươn lên, đạt thành tựu cao, và tất yếu, trong quá trình đó anh đã hội tụ, trải nghiệm được gì, để qua đấy anh đưa ra những suy nghiệm gì có giá trị đặc biệt mới mẻ và sâu sắc về cõi nhân sinh của chúng ta ngày hôm nay? Điều đòi hỏi này có là quá với "Người đặc biệt nhất hành tinh" không? Nếu câu trả lời là "quá", thì chúng ta chờ đợi gì ở Nick? Lẽ nào chỉ là tấm gương vượt khó, trong khi mới vừa qua mạng xã hội đã cho chúng ta nghe một Clip của một em học sinh lớp 12 nói về thực trạng giáo dục ở Việt Nam với những suy nghĩ, vấn đề, giải pháp có tầm vĩ mô qua một khả năng hùng biện rất đáng nể? Vì vậy rõ ràng chúng ta có quyền đòi hỏi ở Nick điều mới mẻ về thế giới, con người, và đó chính là biểu hiện sự tôn trọng cao của chúng ta dành cho anh, Nick có quyền tự hào đón nhận sự kỳ vọng đó ở những khán thính giả đang ngưỡng mộ mình, đặt vào mình niềm tin như một điểm nương tựa tinh thần cho những giá trị đang thiếu hút, đang đổ vỡ trong họ, chờ đợi sự soi sáng, cưu nâng từ anh… Nói chung, Nick Vujicic đang được đón đợi là một điểm nương tựa lòng tin, tình yêu cho những giá trị con người, xã hội đang chịu nhiều khủng khoảng, đổ vỡ, nhất là ở lớp người tuổi trẻ Việt Nam ngày nay.
        

BÀI MỚI ĐẮNG

Truyện ngắn: BÊN CÁNH GÀ CHÁNH ĐIỆN _ NGUYỄN HẢI ĐĂNG

Bên cánh gà chánh điện phần 1 BÊN CÁNH GÀ CHÁNH ĐIỆN Xe dừng lại với tiếng xột xoạt trên mặt đường, như bao chuyến xe đã ghé qua từ thuở ...